Em chào các anh chị em THỨC TỈNH + CHÍNH NGHĨA chả là em thấy có bài viết của anh Nguyễn Văn Tuấn quá hay, em xin phép tag mọi người ạ. Mọi người nhớ tắt thông báo bài viết này để đỡ phiền phức được không ạ. Nếu si cảm thấy mình không phải đối tượng trên thì untag giúp em được không ạ. Em cảm ơn ạ
Anon là gì?
Trong tiếng Anh nghĩa là: soon / presently / after a while / later / immediately (theo nghĩa cổ), để chúng ta hiểu rằng nó diễn tả cho những cái gì đó có thể xảy ra ngay lập tức, hoặc đang xảy ra trong hiện tại, hoặc sẽ xảy ra sớm hay muộn tùy theo diễn biến trong cuộc chiến hiện tại.
Còn nếu nói theo cách viết tắt là của từ anonymous (vô danh) hay anonymously (ẩn danh), có nghĩa là những người vô danh hoặc ẩn danh đang theo dõi, bình luận và chia xẻ những biến cố đã, đang, hoặc sắp xảy ra; ý nói đến những bài đăng của Q.
Còn QAnon? Chúng ta chấp nhận theo hai cách nhìn đơn giản nhất: là lý thuyết nghiên cứu về những phát biểu của Q, hoặc là phong trào gồm những người theo dõi những bài đăng của Q để đấu tranh lật đổ DS Cabal.
Tại sao lại đồng phục đeo mặt nạ này? |
Vi danh giả khí hận chung sinh
Vi lợi giả lục thân bất thức
Vi tình giả tự tầm phiền não
Khổ tương đấu tạo nghiệp nhất sinh
Bất cầu danh du du tự đắc
Bất trọng lợi nhân nghĩa chi sỹ
Bất động tình thanh tâm quả dục
Thiện tu thân tích đức nhất thế
1986 niên 7 nguyệt 13 nhật
Dịch:
Người vì danh suốt đời mang hận
Người vì lợi chẳng nhận thân nhân
Người vì tình tự tìm phiền não
Nhọc đấu tranh tạo nghiệp một đời
Chẳng cầu danh thong dong tự được
Chẳng trọng lợi kẻ sỹ nhân nghĩa
Chẳng động tình thanh tâm quả dục
Thiện tu thân cả đời tích đức
13 tháng Bảy, 1986
LÝ HỒNG CHÍ
Có câu hỏi đặt ra rằng tại sao Việt Nam chia sẻ đều có chữ ký cá nhân hóa?
Tại sao chúng ta cống hiến cho nhân loại nhưng nhiều người lại đòi ghi nguồn?
Có phải sợ không ai biết việc chúng ta cống hiến?
----
Câu chuyện này thật hay về ý nghĩa của sinh mệnh của đời người qua lời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni người đọc có thể đọc để hiểu thêm về ý nghĩa của 2 chữ sinh mệnh, rằng chúng ta đến thế gian này để làm gì?
Có một người quăng một khúc cây xuống biển. Trên khúc cây ấy có một cái lỗ. Một ngọn gió từ phương Đông thổi nó trôi qua hướng Tây; một ngọn gió từ phương Tây thổi nó trôi qua hướng Đông. Và một ngọn gió từ phía Bắc thổi nó trôi qua phía Nam; một ngọn gió từ phía Nam thổi nó trôi qua phía Bắc. Cứ thế, khúc cây bị gió thổi trôi lênh đênh trên biển.
Trong biển lớn ấy có một con rùa mù. Một trăm năm rùa mù mới trồi đầu lên mặt nước một lần. Nhiều, rất nhiều lần của một trăm năm, rùa trồi lên để đút đầu vào đúng cái lỗ cây ấy!
Câu hỏi được đặt ra là: đến bao giờ thì rùa mù mới có thể làm được cái việc cực kỳ hy hữu ấy?
Bàn thêm:
Lỗ cây và con rùa mù là một ẩn dụ nổi tiếng bậc nhất trong kinh điển Phật gia. Ẩn dụ này được Đức Phật ví cho cái sự khó của việc được sinh làm người, một khi bị rơi vào đọa xứ.
Các Tỷ kheo trả lời câu hỏi trên như sau: “Nếu có được chăng nữa, bạch Thế Tôn, thời chỉ được một lần, sau một thời gian rất lâu dài”.
Tuy vậy, Đức Phật dạy rằng: “Còn mau hơn, này các Tỷ kheo, con rùa mù ấy có thể chui cổ vào khúc cây có lỗ hổng kia; nhưng này các Tỷ kheo, ta tuyên bố rằng còn khó hơn được làm người trở lại, một khi người ngu bị rơi vào đọa xứ. Vì sao vậy? Vì ở đấy, này các Tỷ kheo, không có pháp hành, an tịnh hành, thiện hành, phước hành. Này các Tỷ kheo, ở đây chỉ có ăn lẫn nhau và ăn thịt kẻ yếu”.
Người ngu, theo lời Phật, là người: “tư duy ác tư duy, nói lời ác ngữ và hành các ác hạnh”, tức thân khẩu ý người ấy đi ngược với chánh đạo. Theo đó, một người thông minh, có tri thức, có địa vị… cũng có thể bị xem là người ngu, nếu người ấy không tư duy, hành xử và nói lời chân chánh!
Phật dạy: “Người ngu ấy, này các Tỷ kheo, ngay trong hiện tại cảm thọ ba loại khổ ưu”.
Ba loại khổ ấy là:
1. Khi nghe ai đó nói về những việc ác mình làm, như: sát sanh, lấy của không cho, theo tà hạnh trong dâm dục, nói láo, say rượu…, người ấy liền cảm thấy ưu khổ.
2. Cảm thấy khổ não, lo sợ khi thấy những kẻ có tội như mình bị pháp luật trừng phạt bằng các loại cực hình.
3. Khi đi đứng, lúc nằm ngồi, kẻ ấy thấy những việc ác mình làm như treo ép, đè nặng lên người, bị ám ảnh, lòng khổ sở khôn khuây.
Người ngu ấy khi chết sẽ bị rơi vào cõi dữ như địa ngục, súc sinh.
Ở đây, Đức Phật mô tả cảnh địa ngục là nơi có vô vàn sự khổ: “hoàn toàn không tốt đẹp, hoàn toàn không khả ái, hoàn toàn không thích ý”. Ví như một người bị trừng phạt, chịu ba trăm mũi giáo đâm vào người mỗi buổi sáng, trưa, chiều; sự khổ ở địa ngục còn ngàn vạn lần nhiều hơn thế nữa.
Nghe radio về cổng địa ngục ở Nga tại đây :https://by.com.vn/UIfAWf cuối bài có link đọc nốt đến cuối bài rồi nghe
“… Này các Tỷ kheo, các người giữ địa ngục dựng ngược người ấy chân phía trên, đầu phía dưới và quăng người ấy vào một vạc dầu bằng đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây bị nấu với bọt nước sôi sùng sục…; khi thì nổi lên trên, khi thì chìm xuống đáy, khi thì trôi dạt ngang. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ…”.
Hoặc người ngu ấy bị sinh vào các loài bàng sinh, phải ăn phân, ăn cỏ, ăn xác chết…; sinh ra trong chỗ hôi thối, bẩn thỉu, tăm tối và cũng chết đi trong chỗ bất tịnh, thực khó thể nào kể hết được những đọa đày, thống khổ.
Một khi bị rơi vào đọa xứ, người ngu rất khó để được sinh lại làm người, cũng giống như con rùa mù trăm năm một lần trồi lên và đút cổ vào lỗ cây nổi lênh đênh trên biển. Sau một thời gian lâu dài, người ngu đó nếu được sinh trở lại làm người, thì cũng sinh trong gia đình hèn kém, nghèo nàn, “không đủ để uống hay để ăn, cho đến miếng vải che lưng cũng khó tìm được. Lại nữa, người ấy thô xấu, khó nhìn, lùn thấp, hay bệnh, mù hay có tật, què hay bị bại, người ấy không có thể được các đồ ăn, đồ uống, vải xa, vòng hoa, hương liệu, giường nằm, chỗ trú xứ và ánh sáng”
… Đọc ẩn dụ lỗ cây và con rùa mù, chúng ta thấy mình quá đỗi hạnh phúc và may mắn khi có được thân người - nhân thân nan đắc; và càng hạnh phúc hơn khi được học hỏi Chánh pháp - Phật pháp nan văn.
Có được thân người, theo lời Phật dạy, là do chúng ta biết giữ gìn ngũ giới. Vậy mà phần đông chúng ta, dù mang được thân người, nhưng từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, đều vô cùng bận rộn với cái ăn cái mặc, với những mối quan hệ, với những sự vui chơi giải trí, với những thứ hư danh phù phiếm và với những nỗi lo buồn, hỷ nộ ái ố… Khổ đau vì thế cũng đoanh vây trùng trùng.
Ta lấy cái nhân đau khổ này để giải quyết cái quả đau khổ kia, chẳng biết vui là nguyên nhân của khổ - bất tri lạc thị khổ nhân! Trong khi đó, “vô thường, già, bệnh, chẳng hẹn cùng ai! Sáng còn, chiều mất, chỉ trong sát na đã qua đời khác.
Ví như sương xuân, móc sớm, chốc lát thành không; như cây ven sông, giây leo thành giếng, há được lâu dài. Niệm niệm qua nhanh, chỉ trong chốc lát, hơi thở chợt tắt, đã ra đời sau…. Và cổ đức cũng nói: “Thiên niên thiết thọ khai hoa dị/ Nhất thất nhân thân vạn kiếp nan” - (Ngàn năm cây sắt trổ hoa dễ/ Thân người mất đi được lại khó).
Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả - người ta cứ sợ, cứ trách cái khổ hiện tại mà không biết gieo trồng những hạt giống an lạc, hạnh phúc cho tương lai.
Phật dạy, trong sáu cõi, cõi người là nơi dễ tu tập nhất. Dễ, nhưng chúng ta phải kiên định vững chãi. Phải chọn con đường chuyển hóa đích thực và tinh tấn theo con đường ấy; lại phải biết khước từ, kiên quyết không tiếp tục gieo những hạt giống khổ đau.
Ta mừng vui vì có được thân người. Mừng vui nhưng đừng như một kẻ tay bưng bát mật mà chuyển động chạy nhảy, chỉ thấy bát mật chứ không thấy hố sâu… (kinh Di giáo)
Cái hố sâu đọa xứ ấy, rơi xuống thì dễ mà bước lên thì khó, nói chi đến thành tựu đạo nghiệp, chấm dứt sinh tử luân hồi!
Vì sao nói đến thời mạt Pháp, đắc Chính Pháp còn khó hơn lên trời?
“Nếu đúng là như vậy, có được thân người ngày hôm nay quả là kỳ duyên thiên cổ. Nếu ai lại có cơ duyên tu luyện trong Đại Pháp của Ngài, cá nhân ấy quả là quá may mắn”.
Không đắc thân người, không được thọ Pháp
“Tây Du Ký”, hồi 64 “Núi Kinh Cức, Ngộ Năng gắng sức; Am Mộc Tiên, Tam Tạng làm thơ” kể rằng: Sau khi chia tay Vua Tế Trại, thầy trò Đường Tăng tiếp tục lên đường đi Tây Trúc thỉnh kinh. Tới rằm tháng giêng thì đến núi Kinh Cức. Mấy thầy trò đi đến một miếu hoang, thì có một ông già chống gậy đi trước, theo sau là một con quỷ mặt xanh, nanh bạc, tóc đỏ, mình trần, đội mâm bánh, cùng quỳ xuống trước mặt Tam Tạng. Ông lão tự xưng là Thần Thổ Địa núi này, đoạn dâng mâm bánh phục linh cho đoàn thỉnh kinh.
Tôn Ngộ Không nghi ngờ yêu quái, vừa toan giá thiết bảng thì ông già đã cặp nách Tam Tạng hoá gió bay mất.
Đường Tăng được đưa đến Mộc Tiên Am, ông già ban nãy xưng là Thập Bát Công, thưa rằng trăng thanh gió mát, thỉnh Thánh tăng về cùng làm thơ cho vui.
Còn có thêm 3 vị “tiên nhân” xưng là Cô Trực Công, Lăng Không Tử, và Phất Vân Tẩu cùng ngâm thơ đàm đạo. Họ thỉnh cầu Đường Tăng giảng Phật Pháp cho thoả lòng ao ước bấy lâu. Đường Tăng cảm khái rằng:
“Thân người khó được,
Trung Thổ khó sinh,
Chính Pháp khó gặp,
Được cả ba điều,
May mắn lắm thay”
Vừa đúng lúc Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Ngộ Tĩnh đến giải cứu sư phụ. Tôn Ngộ Không phát hiện ra bè lũ “tiên ông”, “tiên cô kia” là mấy cái cây thành tinh. Thập Bát Công là cây tùng, bởi chữ “thập” với chữ “bát” dính lại thành chữ “mộc”, thêm chữ “công” một bên là chữ “tùng”. Còn Cô Trực Công là cây bách, bởi cây trắc ngay thẳng luôn luôn. Còn Lăng Không Tử là cây cối, “lăng không” nghĩa là lấn mây, vì nó cao lắm. Còn Phất Vân Tẩu nghĩa là ông già quét mây, vì ngọn nó cao quá. Con quỷ sứ là cây chùm bao. Hạnh tiên là cây hạnh, hai con tỉ tấc mặc áo xanh là hai cây huỳnh mai.
Bát Giới nghe rõ nổi xung, vì đi kiếm thầy một đêm khổ lắm. Bát Giới vác đinh ba cuốc cả lũ cây đó, rồi kê mỏ ủi trốc gốc đứt rễ hết thảy; thấy máu chảy ròng ròng!
Không đắc thân người thì không được nghe Pháp, động vật cây cỏ dẫu có tu luyện thành tinh cuối cùng cũng bị Trời diệt. Kiếp này đắc thân người, được nghe Phật Pháp quả là hy hữu lắm!
Được nghe Pháp rồi, nhưng không phải ai cũng nghe Pháp nhập tâm, hành trì tinh tấn.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại tịnh xá Kỳ Hoàn, có 500 thiện tín đến xin Ngài giảng pháp. Ðức Thế Tôn không hề phân biệt giai cấp dòng họ sang hèn. Với ai, Ngài cũng giảng dạy bình đẳng như nhau, giống như nước mưa rơi từ không trung xuống thấm nhuần ngàn cây nội cỏ một cách vô tư.
Nhưng dù Ngài ân cần giảng dạy, mấy người kia ngồi nghe Pháp một cách lơ đãng. Ông thì ngủ gục; ông lấy tay gõ hoài trên mặt đất; người cứ lay mãi một nhánh cây; kẻ ngó mông lung trên trời; chỉ có một người chăm chú nghe. Tôn giả A Nan đứng quạt hầu Phật, ngạc nhiên về cử chỉ của năm ông khách nên khi họ vừa ra về, Ngài liền hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn, thời pháp của Ngài giảng như sấm rền vang không trung, mà chỉ có một người chăm chú nghe, còn mấy người kia đều lơ đãng hết sức.
– Này A Nan, ông chưa biết rõ về năm người ấy?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Người đầu tiên đã làm thân rắn 500 đời, thường khoanh tròn nằm ngủ nên đến kiếp này hắn cũng còn giữ cố tật ấy, chẳng có lời nào của ta lọt vào tai hắn.
– Bạch Thế Tôn. Những kiếp ấy xảy ra liên tiếp hay có xen kẽ?
– Khi thì hắn mang thân người, lúc mang thân trời, khi khác làm rắn. Không thể nào kể được những kiếp luân hồi của hắn. Nhưng có 500 kiếp liên tiếp, hắn làm rắn và thường ngủ li bì.
Người dùng tay gõ gõ trên mặt đất, đã 500 đời làm mối kết tổ trong lòng đất nên kiếp này hắn vẫn còn giữ thói quen ấy.
Người cứ lay động nhánh cây, là 500 đời làm khỉ quen leo trèo nên bây giờ hắn không tài nào ngồi yên một chỗ.
Người hay nhìn mông lung trên trời, đã từng làm chiêm tinh 500 đời, nên bây giờ vẫn còn thói quen.
Người chăm chú nghe lời ta, đã từng đọc tụng kinh Vệ Đà 500 đời nên quen chăm chú cần mật như lúc nghe mật chú.
– Nhưng Bạch Thế Tôn, lời Ngài dạy, con thấy thấm tận xương tủy, mà tại sao họ lại lơ là?
– A Nan, bộ ông tưởng giáo lý của ta dễ nghe lắm sao?
– Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Ngài cho nó khó nghe?
– Ðúng thế.
– Tại sao?
– Này A Nan, những người này trong vòng luân hồi đã trải qua nhiều kiếp chưa từng nghe đến tên Tam Bảo, cho nên bây giờ họ không thể thâm nhập giáo pháp. Ra vào cuộc tử sanh vô tận, họ chỉ quen nghe tiếng nói của súc sanh. Hơn nữa, họ còn tiêu phí gần hết thì giờ trong việc ăn uống, vui chơi, múa hát, và không thể nghe theo lời ta giảng.
Kim Thiền Tử bị đọa sang Đông Thổ Đại Đường liền bắt đầu trải qua kiếp nạn. Vừa mới sinh ra đời thì cha đã bị giết, mới vừa đầy tháng mẹ cậu bé đã phải thả cậu lên bè trôi sông, suýt chút nữa thì bị chết đuối. Lớn lên đi tìm họ hàng báo oan chẳng hề dễ dàng, về sau trên con đường phản bổn quy chân đi Tây Trúc thỉnh kinh phải trải qua muôn ngàn sóng gió, trải qua 81 nạn mới trở về lại được Phật quốc.
Vậy mới thấy, ác nghiệp gây ra do tội coi thường Phật Pháp mới to lớn nhường nào. Pháp đắc rồi lại không biết trân quý, để có lại cơ duyên thật khó lắm thay!
Đến thời Mạt Pháp, đắc Chính Pháp còn khó hơn lên trời
Theo Kinh Phật, thời đại chúng ta đang sống là thời Mạt Pháp. Thời nay, để được nghe và tu luyện trong Phật Pháp có lẽ còn khó hơn lên trời.
Kinh Pháp Diệt Tận có viết: “Lúc Phật Pháp sắp diệt người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức. Trái lại, người nam phần nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi khinh mạn, không thích nghe Pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng Sa môn thì rẻ rúng chê bai, xem như đất bụi. Lúc ấy, do nghiệp ác của chúng sanh, mưa nắng không điều hòa, ngũ sắc hư hao, tàn tạ, bệnh dịch lưu hành, người chết vô số. Thời bấy giờ, hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo khổ, ai nấy đều mong cho có giặc loạn. Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người lương thiện, còn kẻ ác thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư thiên buồn thương rơi lệ”.
Tuy nhiên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng để lại những lời tiên tri về sự đản sinh của một vị Phật tương lai. Kinh Phật ghi lại: “Long Hoa tam hội nguyện tương phùng, sau năm mươi ức năm, Phật Di Lặc hạ thế, giảng Pháp tam biến, độ hết tất cả chúng sinh hữu duyên”. ("Gõ Google: "Ưu Đàm bà là hoa nở khắp nơi")
Quyển 8 kinh “Huệ Lâm Âm Nghĩa” có nhắc tới sự đản sinh của một đức Phật Như Lai hay một đức Chuyển Luân Thánh Vương. Sự đản sinh của Ngài sẽ đi cùng dấu hiệu nơi thế gian là những bông hoa Ưu Đàm Bà La, một loài thiên hoa nhỏ li ti trắng muốt, thân hoa mỏng như sợi tơ, trong suốt, sắc trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra vầng sáng nhàn nhạt, có khả năng mọc trên bất kỳ chất liệu nào như đồng, sắt thép, thủy tinh, keo dán, trái cây, thực vật, hoa tươi hàng năm không phai tàn.("Gõ Google: "Ưu Đàm bà là hoa nở khắp nơi" bật chế độ image hoặc video)
Từ những năm 90 đến nay, hoa Ưu Đàm Bà La lần lượt khai nở khắp nơi trên thế giới. Phải chăng vị Phật Di Lặc của tương lai, Đức Chuyển Luân Thánh Vương đã hạ thế độ nhân? Nếu đúng là như vậy, có được thân người ngày hôm nay quả là kỳ duyên thiên cổ. Nếu ai lại có cơ duyên tu luyện trong Đại Pháp của Ngài, cá nhân ấy quả là quá may mắn.
- Tìm hiểu thêm luân hồi tại đây: https://youtu.be/NubEdQTwwUE
Một câu chuyện khác:
Xưa kia có một ngôi chùa, trong chùa phân thành hai khu Đông và Tây riêng biệt. Trước phòng phía Đông có một con giun đất, sớm tối được nghe kinh kệ, thiên tính linh thông, đúng canh năm hàng ngày giun đất đều cất tiếng kêu, trụ trì cũng theo đó mà gọi chúng đệ tử dậy tụng kinh niệm Phật...
Trụ trì khu phòng phía Tây thấy các huynh đệ phía Đông mỗi ngày đều thức dậy đúng lúc canh năm để bái Phật tụng Kinh nên gọi các đệ tử của mình lại trách mắng: “Sao mọi người không học các huynh đệ khu phòng phía Đông tu hành tinh tấn, canh năm mỗi ngày đều dậy bái Phật tụng kinh, cứ tham ăn, tham ngủ. Như vậy có còn là người tu luyện hay không?”.
Một hôm đệ tử khu phòng Tây đi hỏi đệ tử khu phòng Đông: “Các huynh bên này thật là tinh tấn, canh năm mỗi ngày đều dậy bái Phật, tụng kinh, mà các huynh làm sao để ngày nào cũng dậy sớm đúng giờ như vậy được?”.
Đệ tử khu phòng Đông đáp: “Trước đây chúng tôi người nào người nấy cũng đều ham ăn ham ngủ như các huynh đệ bên đó vậy. Tuy nhiên kể từ khi phía trước Pháp đường chúng tôi xuất hiện một con giun đất, hàng ngày cứ đúng canh năm là cất tiếng kêu gọi. Sư phụ chúng tôi cứ nghe thấy tiếng giun kêu liền gọi chúng tôi dậy bái Phật tụng kinh”. Đệ tử khu phòng Tây nghe xong trong lòng dấy lên tâm đố kỵ đối với đồng môn và sinh lòng oán hận con giun đất.
Quả báo đời thứ nhất...
Một hôm vị trụ trì phía Đông đi vắng, đệ tử khu phòng Tây đun một nồi nước sôi, thừa lúc thầy trò khu phòng Đông vắng mặt liền khênh nồi nước qua đó đổ vào hang giun, giun cũng vì thế mà chết vì bỏng. Ngày hôm sau, thầy trò khu phòng Đông không nghe thấy tiếng giun kêu, mọi người đi tìm, thấy giun đã chết nên vào bẩm với sư trụ trì. Trụ trì ra xem rồi đọc kinh siêu độ cho giun siêu thoát.
Giun được sư trụ trì siêu độ nên chuyển sinh được thân người, làm một tiều phu tốt bụng, hàng ngày vào rừng đốn củi kiếm sống qua ngày. Còn đệ tử khu phòng Tây vì phạm tội sát sinh, giết chết giun nên phúc phận tiêu trừ, chuyển sinh thành khỉ nhưng vẫn tín phụng Phật Pháp.
Một hôm tiều phu vào núi kiếm củi, thấy một ngôi chùa tan hoang, nóc chùa đã hỏng, chỉ còn ba pho tượng Phật lộ thiên. Tiều phu sợ mưa gió làm hỏng tượng Phật nên về nhà mua đồ đến trùng tu lại mái chùa.
Lại một lần khác, trên đường vào rừng kiếm củi, tiều phu thấy bảy vị tú tài muốn qua khe suối mà không thể qua được, tiều phu liền vội vàng bê bảy hòn đá kê dưới khe suối cho mọi người đi qua. Sơn Thần, Thổ Địa chứng kiến dâng sớ tấu lên thiên đình: “Trần gian có người tiều phu lương thiện, tu sửa điện Tam Bảo, làm cầu thất tinh, công to đức lớn”.
Quả báo đời thứ hai…
Tiều phu mỗi ngày lên rừng đốn củi, luôn tiện tay hái hoa rừng rồi ghé vào chùa dâng cúng Phật. Gần khu chùa hoang cũng có một con khỉ, ngày ngày cầm hoa mang đến dâng Phật, mỗi lần thấy trong bình có hoa nó liền lấy ra vứt đi, thay hoa của mình vào trong bình rồi rời đi.
Tiều phu sau khi kiếm củi quay về, thấy hoa mình cắm trong bình thường bị ai đó bỏ đi mà thay bằng hoa khác, trong lòng nghi hoặc: “Nơi rừng sâu, núi thẳm không có ai lai vãng, vậy hoa này ở đâu ra?”...
Tiều phu đem củi về nhà, sáng sớm hôm sau quay lại trong núi, đem hoa mới thay vào bình xong xuôi đâu đó bèn ẩn vào một chỗ quan sát. Một lúc sau, tiều phu thấy một con khỉ tay cầm bó hoa đi đến, nó vào trong Phật đường đem hoa trong bình bỏ đi, rồi cắm hoa của nó vào.
Tiều phu chứng kiến mọi việc liền to tiếng quát, khỉ thấy vậy quay đầu bỏ chạy. Tiều phu đuổi theo, thấy khỉ chui vào một hốc đá nên lấy tảng đá lớn bịt lại. Khỉ kẹt không ra được nên chết vì đói bên trong. Đây chính là vì nhân quả báo ứng của đời trước của hai người gây nên.
Về phần mình, tiều phu trăm tuổi qua đời, thiên địa thấy tiều phu có công đại đức tu sửa chùa chiền, làm cầu giúp người nên cho chuyển sinh vào thời Lương quốc tên là Tiêu Diễn, chính là Lương Vũ Đế. Còn con khỉ năm xưa chuyển sinh đến Bắc Ngụy tên là Hầu Cảnh, sau thành tướng nhà Bắc Ngụy.
Lại nói về Lương Vũ Đế, tính tình lương thiện, tôn kính Phật Pháp, bái hòa thượng Chí Công làm sư phụ, vợ là Si Huy hoàng hậu cũng bái hòa thượng Vân Công làm thầy. Một hôm hòa thượng Vân Công khai đàn thuyết Pháp, giảng kinh, Si Huy hoàng hậu mời Lương Vũ Đế đến nghe, Lương Vũ Đế lại mời hòa thượng Chí Công cùng đến nghe Pháp.
Hòa thượng Chí Công đến nghe giảng thấy Hòa thượng Vân Công khi lên đàn giảng kinh thuyết Pháp lại uống rượu ăn thịt nên tiến đến hỏi: “Vân Công nay đã là thầy của Si Huy hoàng hậu, cần phải làm tấm gương mẫu mực đại biểu cho chúng tăng cả nước. Khai đàn giảng kinh, thuyết Pháp thì phải trai tịnh trang nghiêm, cớ sao lại còn uống rượu ăn thịt?”.
Hòa thượng Vân Công đáp: “Ta ăn thịt uống rượu cũng như không có ăn thịt uống rượu”.
Hòa thượng Chí Công nghe vậy nói: “Ta xem những việc ông đang làm cũng như không làm”.
Không lâu sau hòa thượng Vân Công bị bệnh qua đời, chuyển sinh thành một con bò, hòa thượng Chí Công biết chuyện mới nói với Lương Vũ Đế, Lương Vũ Đế không tin. Một hôm, Lương Vũ Đế cùng hòa thượng Chí Công ra ngoài thành du sơn ngoạn thủy, thấy một nhóm người đang canh tác. Lại gần thấy một con bò khoang đang ở đó, hòa thượng Chí Công mới nói với Lương Vũ Đế: “Đây chính là Vân Công”.
Lương Vũ Đế ngạc nhiên lắm, hỏi: “Làm sao sư phụ biết?”.
Hòa thượng Chí Công đáp: “Nếu điện hạ không tin, hãy gọi ba tiếng sẽ biết thực hư”.
Lương Vũ Đế liên tiếp gọi ba câu, con bò khoang lập tức quỳ bốn chân xuống, hai mắt rơi lệ. Hòa thượng Chí Công nói: “Ngày trước người đăng đàn thuyết Pháp, giảng kinh không những không trai giới thanh tịnh lại còn bao biện rằng: "ăn thịt uống rượu cũng như không", nay chuyển sinh thành kiếp trâu bò cũng là quả báo của nhà ngươi vậy”. Con bò nghe xong liền đứng dậy lao đầu vào cột sắt bên cạnh chết ngay tức khắc. Lương Vũ Đế thấy vậy thất kinh nên làm một bài kệ như sau:
“Kiên trì tu hành độ chúng sanh
Mạo phạm khẩu nghiệp tội bất khinh
Tửu nhục bất trừ đăng đài tọa
Vân Công thuyết pháp trụy ngưu thân”.
Dịch:
"Kiên trì tu đạo độ chúng sinh
Ngờ đâu khẩu nghiệp nặng khôn cùng
Rượu thịt không bỏ đăng đàn Pháp
Vân Công giảng Pháp đọa thân bò".
Thấy được nghiệp báo của hòa thượng Vân Công, Lương Vũ Đế lại càng tin vào Phật Pháp. Tuy nhiên lối sống xa hoa vẫn chưa thể bỏ nên thường mời hòa thượng Chí Công đến dự tiệc ăn uống ca hát, điều này khiến Hoà thượng Chí Công rất không vui.
Trong khi cung nữ ca múa nhộn nhịp, Lương Vũ Đế mới hỏi Chí Công hòa thượng rằng: “Cung nữ biểu diễn có hay không?”.
Hòa thượng Chí Công đáp: “Ta không biết”.
Lương Vũ Đế nói: “Cung nữ ca múa ngay trước mặt, tại sao người lại không biết?”.
Hòa thượng Chí Công đáp: “Nếu điện hạ không tin, hãy mang ba phạm nhân trọng tội trong ngục ra đây, ta tự có đạo lý của mình”.
Lương Vũ Đế cho người đưa ba phạm nhân trọng tội đến quỳ trước mắt hòa thượng Chí Công.
Hòa thượng Chí Công nói: “Tội của ba người là tội chết, nay ta cho ba người, mỗi người đội trên đầu một bát nước đầy quỳ ở đây. Đợi tí nữa cung nữ ca múa xong, nếu như không rơi vãi giọt nào, ta sẽ bẩm lên hoàng thượng xá tội chết cho các người hoàn lương về quê, còn nếu như vãi dù chỉ một giọt, tội như cũ mà thi hành”. Ba phạm nhân nghe xong theo đó mà làm, quỳ trước điện xem cung nữ ca hát.
Đợi lúc cung nữ ca hát vui vẻ nhất, hòa thượng Chí Công nói với Lương Vũ Đế: “Điện hạ hãy hỏi phạm nhân xem cung nữ ca múa có hay không?”.
Lương Vũ Đế hỏi phạm nhân: “Các ngươi thấy cung nữ ca múa thế nào, có hay không?”.
Ba người phạm nhân cùng nhau đáp: “Tội thần không biết”.
Lương Vũ Đế: “Cung nữ ca múa ngay trước mặt các ngươi, tại sao lại không biết?”.
Phạm nhân đồng thanh đáp: “Chúng tội thần chỉ để ý tới mạng sống của mình, còn tâm chí đâu mà để ý cung nữ ca múa có đẹp hay không?”.
Hòa thượng Chí Công lúc này mới mỉm cười nói: “Người tu hành cũng như vậy”. Lương Vũ Đế nghe xong bừng tỉnh ngộ, đại xá cho phạm nhân, ba phạm nhân được tha mừng rỡ, tạ ơn trở về.
Lại có một hôm, Lương Vũ Đế hỏi hòa thượng Chí Công: “Quả nhân bố thí trai tăng, cúng dường chư Phật, năm dặm xây một miếu, mười lý xây một chùa, công đức có to không?”.
Hòa thượng Chí Công đáp: “Không có chút công đức nào hết”.
Lương Vũ Đế hỏi: “Sư phụ nói kiếp trước quả nhân là một tiều phu, sửa nóc chùa, che ngôi Tam bảo, làm cầu thất tinh có công đức vô lượng. Nay quả nhân hưởng phước đế vương, dựng vô số miếu, xây vô số chùa cúng dường cho chư tăng ni, tại sao lại không có công đức?”.
Hòa thượng Chí Công đáp: “Kiếp trước điện hạ là tiều phu, nhưng tấm lòng thiện lương tự nguyện xuất tâm tu chùa sửa miếu để che ngôi Tam Bảo, dùng sức mình làm cầu thất tinh nên có công đức. Nay điện hạ thân là bậc đế vương xây dựng chùa miếu đều là kêu gọi dân phu, phiền nhọc dân chúng, thực sự là không hề có công đức”.
Lương Vũ Đế nghe nói vậy thấy có lý, trong lòng chuyển ngộ nên ngày ngày yêu cầu sư phụ giảng kinh thuyết Pháp cho mình nghe, không màng đến giang sơn xã tắc. Si Huy hoàng hậu thấy Lương Vũ Đế không màng chính sự nên trong lòng không vui, từ đó phỉ báng Phật Pháp, bày mưu ép hòa thượng Chí Công phá giới.
Si Huy hoàng hậu sai người mổ chó làm màn thầu giả mời hòa thượng Chí Công vào cung ăn, những mong khép tội vị cao tăng phá hoại Phật giới để có cớ sát hại.
Hòa thượng Chí Công là người tu luyện lâu năm, sớm đã có công năng, ông biết trước mọi việc nên nói với Lương Vũ Đế: “Si Huy hoàng hậu ngày mai sẽ mời ta vào cung nhằm lừa ta phạm Phật giới để kiếm cớ giết hại. Ta ở trong cung nếu có gì bất trắc sẽ đánh trống báo hiệu, điện hạ phải kịp thời đến đó cứu ta”, Lương Vũ Đế nhận lời.
Quả nhiên sáng hôm sau, Si Huy hoàng hậu cho người mời hòa thượng Chí Công vào cung, ban màn thầu cho hòa thượng Chí Công ăn. Chí Công hòa thượng không ăn khiến cho Si Huy hoàng hậu nổi giận, kêu người giết. Hòa thượng Chí Công lập tức rút trống ra đánh rồi đem thức ăn đổ ra ngự hoa viên, trong đó toàn là những món thuộc về giới Huân: hành, gừng, tỏi, thịt…
Lương Vũ Đế nghe tiếng trống đánh vội vàng chạy lại ứng cứu, Hoàng Đế nổi giận mắng Si Huy hoàng hậu rằng sau này sẽ gặp báo ứng. Quả nhiên không lâu sau Si Huy hoàng hậu vì tội phỉ báng tăng nhân nên lâm bệnh qua đời.
Sau khi Si Huy hoàng hậu chết, quỷ vô thường đến bắt đi gặp Diêm Vương, Diêm Vương nổi giận bắt giam vào địa ngục chịu khổ, biến thành người cổ nhỏ như kim, bụng to như thúng, không thể ăn uống, mụn nhọt khắp người, vô số ấu trùng đeo bám, thống khổ triền miên không gì kể xiết. Sau một thời gian thì Si Huy hoàng hậu chuyển sinh thành loài rắn tiếp tục chịu đau đớn đọa đầy.
Lại nói, sau khi hoàng hậu chết, mãi một thời gian dài Lương Vũ Đế không vào trong cung nữa. Một hôm Lương Vũ Đế vào thăm hậu cung, thấy trên lầu có tiếng động, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy một con rắn đang ở trên Phượng lầu cất tiếng kêu: “Xin đến cứu thiếp”. Lương Vũ Đế nghe vậy thất kinh mới hỏi: “Ngươi là ai?”.
Con rắn trả lời: “Thiếp là Si Huy hoàng hậu, vì kiếp trước phỉ báng Phật Pháp, ám hại hòa thượng Chí Công, lại sát sinh hại mệnh nên bây giờ gặp quả báo chuyển sinh thành rắn. Xin quân vương niệm tình phu thê xưa cũ, hãy thỉnh mời Chí Công đại sư đại từ đại bi tụng kinh sám hối cho thần thiếp được siêu thoát”.
Lương Vũ Đế nghe vậy nên nể tình xưa nghĩa cũ, cho người chuẩn bị trai đàn thỉnh mời hòa thượng Chí Công đến giảng kinh thuyết Pháp.
Chí Công hòa thượng làm bài kệ như sau:
“Khuyên người thế gian đừng u mê
Phỉ báng Phật Pháp tội sâu dày
Nghiệp khổ vô biên
Khó ngày hoàn trả
Nghênh phong điểm lửa
Tự đốt tâm thâm
Ngậm máu phun trời
Bờ môi tự bẩn”.
Lương Vũ Đế nghe xong trong lòng buồn bã, Chí Công hòa thượng thấy vậy liền tụng đọc “Đại Tạng Kinh” rồi lại viết kệ “Lương Hoàng Sám” mong nhờ Phật tổ từ bi xá tội siêu thoát.
Trong lúc hòa thượng Chí Công đang đăng đàn thì đột nhiên Lương Vũ Đế nhìn thấy một người đang bay trên mây, miệng nói: “Thiếp là hoàng hậu biến thành rắn, cảm tạ đại ân của quân vương và ơn nhờ Pháp lực siêu độ của sư phụ, nay thiếp đã được thăng thiên”. Lương Vũ Đế chứng kiến mọi việc nên sau này càng thêm bội phần tinh tấn, ngày đêm khổ cực tu hành.
Quả báo đời thứ ba…
Một hôm Lương Vũ Đế hỏi hòa thượng Chí Công: “Đệ tử khi nào mới thành Đạo?” Hòa thượng Chí Công không đáp mà dùng tay chỉ vào yết hầu, Lương Vũ Đế không hiểu hàm ý mới hỏi lại. Hòa thượng Chí Công nói: “Người ở đây vinh hoa phú quý khó bỏ, phải vào núi ẩn cư mới có thể đắc đạo thành Phật”.
Lương Vũ Đế nghe Chí Công hòa thượng nói vậy nên thu dọn hành trang đến thành Đài tu hành, tham đạo. Về phần hòa thượng Chí Công, biết được Lương Vũ Đế sắp phải chịu tội quả báo kiếp trước gây ra nên cũng cáo biệt mà đi.
Sau khi Chí Công hòa thượng cáo biệt không lâu, bỗng một hôm tướng Hầu Cảnh của nước Ngụy đem quân đến bao vây thành Đài. Lương Vũ Đế bị bao vây bên trong, lương thực khô cạn. Đang trong lúc nguy nan, sinh tử cận kề, thì Lương Vũ Đế lại sinh lòng thoái tâm tu Đạo, mất đi niềm tin vào Phật Pháp.
Cũng may lúc này đột nhiên hòa thượng Chí Công xuất hiện trên không trung, cất cao tiếng gọi: “Đây chính là nghiệp báo nhân quả ba đời do mình gây nên, không được thoái tâm tu Đạo”.
Lương Vũ Đế nghe vậy nên vui vẻ, an nhiên chịu chết đói ở thành Đài, sau khi chết Lương Vũ Đế hóa thành thân Phật bay lên đài sen trên không trung, trước khi rời đi, Lương Vũ Đế ngoái lại nói với Hầu Cảnh như sau:
“Do ta lúc đầu chẳng biết nhân quả mà tạo nghiệp, vốn dĩ cũng đều là người đồng căn, đồng phái. Nay ngươi vây thành lấy mạng ta, coi như ta trả cái nhân duyên cho ngươi ở thành Đài này vậy”.
Hầu Cảnh nghe vậy đáp:
“Ta kẻ hồng trần nên nhân duyên chẳng rõ, không nhận đồng căn, cũng chẳng biết người đồng phái, Vũ Đế về trời, ta rút lui binh, nợ kia đoạn tuyệt”.
Nghe xong Lương Vũ Đế ngồi trên đài sen về trời, chứng đắc quả vị La Hán.
Bể khổ trần gian chính là cái nơi cho con người trả nợ, đền ơn. Có những chuyện hàng ngày chúng ta vẫn cứ ngỡ là ngẫu nhiên trùng hợp. Tuy nhiên trên thực tế đó lại là sự an bài của đấng tối cao mà ở đó, người tin thì tạo phúc làm lành, kẻ không tin thì đêm ngày tạo nghiệp.
Cũng chỉ vì một chút nóng giận, thiếu suy nghĩ mà những đệ tử khu phòng Tây phạm tội sát sinh để cuối cùng phải trăm năm uổng phí kiếp người, chuyển sinh thân khỉ chờ ngày chịu quả, trả nhân. Và cũng bởi u mê, luật trời không tỏ, tiều phu kia vác đá bịt hang, gây ra lầm lỗi khiến cho đời sau mặc dù đã chuyển thân thành Lương Vũ Đế vẫn phải đền tội - vong mạng chốn thành Đài.
Nhân sinh tại thế, nếu cứ chạy theo ân ân oán oán thì muôn đời không dứt, chỉ có sự độ lượng bao dung mới là cánh cửa giải thoát cho mọi lỗi lầm.
Nếu như đệ tử khu phòng Tây khi nghe được chuyện mà không sinh tâm tật đố, lấy đó làm vui, thêm phần tinh tấn thì giun kia nay được kiếp người, tăng kia nay được làm người thần tiên. Đây chẳng phải là vẹn cả đôi đường hay sao? Chúng ta đôi khi lại vì một phút u mê, xem thường những lỗi lầm nhỏ mà bỏ mặc lương tâm để sau cùng khi hiểu ra thì chuyện đã muộn rồi.
Thế gian có thay đổi, lòng người có chuyển hướng thì luật nhân quả muôn đời vẫn vậy, nhân nào quả ấy muôn đời luôn chuẩn xác, nhất là đối với những người bức hại Phật Pháp và người tu luyện như Si Huy hoàng hậu hay phạm tội bất kính, phạm giới như hòa thượng Vân Công thì lại càng phải chịu quả báo trầm luân biết bao giờ tìm cho ra lối thoát?
Phật Pháp luôn từ bi với con người ai nhận ra được thì đắc phúc báo, ai u mê như hoàng hậu Si huy khi gặp Diêm Vương khó lòng thoát tội.
“Trong cả hai nền văn hóa Tây Phương và Trung Quốc, nguyên lý quả báo, nghĩa là một người phải chịu trách nhiệm cuối cùng cho những hành động của họ, là được công nhận rộng rãi. Giáo lý căn bản của Pháp Luân Công là đặc tính của vũ trụ, Chân Thiện Nhẫn. Vũ trụ sẽ thưởng cho những hành động phù hợp với nguyên lý này, và những việc làm như phỉ báng, vu khống, đánh đập, tra tấn và giết người sẽ đem đến quả báo.
Nói một cách khác, thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Bài viết như dưới đây có ý nghĩa nhắc nhở nguyên lý này cho những ai mà muốn làm ác. Trong khi rất nhiều những người bức hại Pháp Luân Công chỉ là “làm theo” mệnh lệnh, luật vũ trụ vẫn xác định là họ phải chịu trách nhiệm cho những hành động của họ, và chỉ có bằng cách đảo ngược lại con đường làm ác thì người ta mới có thể thoát khỏi quả báo.”
Nhiều người Trung Quốc đã mất khả năng suy nghĩ một cách độc lập do bị tẩy não bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Họ không chỉ chấp nhận bất kỳ điều gì mà ĐCSTQ nói, mà còn làm việc rất hăng hái để củng cố sự tuyên truyền của chính phủ nhằm tẩy não những người khác. Họ không nhận ra rằng có những hậu quả cho việc ủng hộ tà đảng trong cuộc bức hại Pháp Luân Công. Sau đây là một vài ví dụ.
Diêm Trung Dân là một giáo viên tại thôn Ấu Nhi, Trọng Cách Trang, thị trấn Mã Liên Trang, thành phố Lai Tây, tỉnh Sơn Đông. Trong vài năm đầu của cuộc bức hại, bà đã sáng tác các bài hát và biểu diễn nhiều lần để nhục mạ Pháp Luân Công. Các bài hát của bà trợ giúp đảng trong việc đầu độc thế nhân. Diêm Trung Dân đã bị chẩn đoán là ung thư họng vào năm 2007. Nhiều người tin việc này là quả báo do bức hại Pháp Luân Công.
Phan Thủy Bình, bí thư đảng của xã Vũ Miếu, thành phố Giản Dương, tỉnh Tứ Xuyên, nhiều lần đã hợp tác bắt giữ các học viên Pháp Luân Công và lục soát nhà của họ. Vào tháng 11 năm 2006, hành động bất hợp pháp của ông ta bị phơi bày trên trang Minh Huệ Net https://by.com.vn/N163qH .
Thay vì nghĩ lại những việc làm sai trái, ông ta đã khẳng định là sẽ làm mạnh tay hơn trong việc bức hại các học viên Đại Pháp.
Thực tế ông ta được coi là biểu hiện như một cá nhân “ưu tú”, nó làm ông ta cảm thấy phản ánh đúng mức độ cống hiến vào cuộc bức hại Pháp Luân Công (nhiều tới mức mà các học viên từ Quảng Châu và bên ngoài Trung Quốc đã công bố tên của ông ta). Cảm thấy được khuyến khích bởi việc này, ông ta đã yêu cầu chính quyền Giản Dương phải thăng chức.
Một vài người bức hại không tin rằng họ sẽ phải nhận nghiệp báo, và coi đó là một khái niệm mê tín để đe dọa mọi người. Họ chỉ xác nhận nó khi tự mình trải nghiệm, nhưng khi ấy thì đã quá muộn. Dương Thụy Thực, hiệu trưởng của trường làng Văn Minh ở thị xã Tứ Hà, thành phố Du Thụ, tỉnh Cát Lâm, đã báo một học viên Đại Pháp cho cảnh sát, làm cho học viên này bị cầm tù. Ngay sau đó, Dương Thụy Thực bị chẩn đoán ung thư cổ họng và chết gần đây. Vào lúc biết về bệnh tật của ông ta, Dương Thụy Thực bảo rằng, “Tôi không biết nghiệp báo lại tới sớm vậy.”
Lưu Hưng Bình, một người dân từ Đội 7 làng Hoan Hỉ, thị trấn Nam Hưng, thành phố Quảng Hán, tỉnh Tứ Xuyên, đã hợp tác và trợ giúp trong việc bắt giữ các học viên Đại Pháp nhiều lần. Ông ta phỉ báng Đại Pháp và lừa dối những người dân không được thông tin. Mục đích của ông ta là để bảo vệ việc hành nghề y của con rể bởi vì sẽ ít người khám bệnh và mua thuốc của anh ta nếu họ trở nên mạnh khỏe nhờ tu luyện Pháp Luân Công.
Lưu Hưng Bình cũng mắc bệnh ung thư họng.
Ông Phan bị chẩn đoán ung thư cổ họng vào cuối năm 2006, khi ông ta trực tiếp nhục mạ Đại Pháp trong nỗ lực để được thăng cấp. Sau khi chẩn đoán, ông ta đã nhắc nhở các thành viên gia đình những người biết về bệnh tật của ông ta không được kể với ai, sợ rằng người khác sẽ nói rằng là do quả báo. Ông ta giờ đã tiêu hơn 10 ngàn nhân dân tệ (NDT) cho điều trị và vẫn phải chịu đựng bệnh tật và các phản ứng phụ của điều trị.
Tào Hoa Nghĩa là một bí thư đảng của cảng Táo Sĩ, công ty vận tải Lỗi Thủy, thành phố Lỗi Dương, tỉnh Hồ Nam. Vào tháng 4 năm 2006, khi ông ta trông thấy một biểu ngữ dán vào một bức tường được đọc là “Trời diệt Trung Cộng – thoái đảng và các tổ chức liên đới là tự cứu,” ông ta đã nguyền rủa Pháp Luân Công và các học viên, và ông ta đã phá hủy bất kỳ tài liệu giảng chân tướng nào ông ta gặp. Trong vòng một tháng, cổ họng của ông Tào bắt đầu sưng tướng một cách tồi tệ, và ông ta bị chẩn đoán ung thư cổ họng. Ông ta chết vào ngày 20 tháng 8 năm 2006.
Quách Hữu Trụ, trưởng phòng an ninh ở làng Thường Trang, huyện Hùng, tỉnh Hà Bắc, đã nguyền rủa và nhục mạ Đại Pháp thông qua hệ thống thông tin quảng bá vào năm 2005. Ông ta từ chối lắng nghe khi các học viên đã cố gắng giải thích sự thật về Đại Pháp. Trong Thế Vận Hội Bắc Kinh vào năm 2008, ông ta lại truyền bá những thông tin bôi nhọ thông qua hệ thống thông tin quảng bá và dính líu vào việc bắt bớ các học viên. Quách Hữu Trụ bị chẩn đoán ung thư cổ họng vào mùa hè năm 2010 và sau đó trải qua một cuộc phẫu thuật vào năm đó, nó tiêu tốn của ông ta hơn 10.000 NDT. Tuy nhiên, việc điều trị không cứu được cuộc sống của ông ta và ông ta đã chết vào ngày 27 tháng 2 năm 2011 ở tuổi 57.
Thái Bội Long, trưởng ban An ninh Chính trị của sở cảnh sát Hải Phong ở tỉnh Quảng Đông. Ông ta tích cực tham gia trong cuộc bức hại các đệ tử Đại Pháp và cười nhạo sự thật về Đại Pháp, cuộc bức hại, và sự tà ác của ĐCSTQ. Ông ta sau đó phải chịu ung thư cổ họng, làm cho không thể nói được, và cổ ông ta sưng to. Thậm chí như thế, Thái Bội Long vẫn chỉ huy bắt bớ các đệ tử Đại Pháp. Sức khỏe của ông ta xuống cấp nhanh chóng trong dịp Tết Nguyên Đán 2010 và ông ta phải đi Quảng Châu, trung tâm tỉnh, để điều trị thêm. Ông ta chết vào tháng 6 năm 2010.
Nhiễm Lệnh Tài, một viên chức ở Ban quản lý đô thị của thị xã Song Thành, thành phố Song Thành, tỉnh Hắc Long Giang, đã tra tấn các đệ tử Đại Pháp bằng cách nhục mạ, đánh đập, treo, trói, và cái được gọi là “lái máy bay” trong những thủ đoạn tẩy não thực hiện bởi công ty Thu Lâm vào tháng 12 năm 2000. Một lần, khi ông ta đi qua một căn phòng, Nhiễm Lệnh Tài trông thấy một vài học viên nữ đọc Chuyển Pháp Luân bên trong. Ông ta lao vào phòng và kéo họ ra sân, và thẩm vấn họ lấy sách ở đâu (bởi vì cảnh sát đã tịch thu các sách Pháp Luân Đại Pháp và tư liệu). Các học viên không muốn nói cho ông ta, nên ông ta đã đánh họ thậm tệ, cho đến khi mặt họ bị sưng lên và đầy vết thâm tím. Ông ta thậm chí sử dụng một dây thừng mỏng để thít cổ một học viên suýt chết. Vào tháng 6 năm 2003, Nhiễm Lệnh Tài bị chẩn đoán ung thư cổ họng, và ông ta không thể ăn uống trong một thời gian dài. Ông ta chịu đựng thống khổ cực độ trước khi chết.
Sự thống khổ của Nhiễm Lệnh Tài đi đôi với sự tra tấn mà ông ta đã gây ra với học viên Đại Pháp mà ông ta thắt cổ. Thêm một câu chuyện về trường hợp sự thống khổ của kẻ bức hại đại biểu rất gần với sự thống khổ của một học viên mà kẻ đó tra tấn đến chết.
Trương Gia Quốc, thị trưởng thành phố Ma Thành, tỉnh Hồ Bắc, chịu trách nhiệm bức hại Pháp Luân Công trong vùng của ông ta. Ngay khi ông ta trở thành thị trưởng vào tháng 3 năm 2001, Trương Gia Quốc đã tăng cường bức hại ở Ma Thành. Học viên Vương Hoa Quân bị bắt vào sáng ngày 18 tháng 4 năm 2001. Lệnh giới nghiêm đã được ban hành toàn thành phố vào lúc 1 giờ 30 phút chiều, và đêm hôm đó bà Vương bị kéo tới quảng trường gần tòa thị chính thành phố, nơi bà bị đổ xăng và thiêu chết. Sau đó, mọi người phát hiện ra một lỗ thủng ở trên cổ bà Vương, cắt một cách rõ ràng bằng một con dao. Hiển nhiên, cảnh sát đã cắt cổ họng của bà để ngăn bà kêu cứu.
Ma Thành là một thành phố cấp huyện với dân số nhỏ hơn một thành phố trung bình. Thật phi lý khi một học viên Pháp Luân Công lại bị giết hại một cách tàn bạo như thế ở nơi công cộng mà không có chỉ thị rõ ràng từ viên chức chịu trách nhiệm, Trương Gia Quốc.
Vào ngày 9 tháng 2 năm 2002, Trương Gia Quốc có bài phát biểu trên Truyền hình Ma Thành về một làn sóng bắt bớ mới các học viên Pháp Luân Công. Ngày hôm sau ông ta đã trải qua một cơn đau nghiêm trọng ở cổ họng. Ông ta vội vàng tới một bệnh viện, nơi ông ta bị chẩn đoán có một khối u ở cổ họng. Kỳ lạ là khối u của ông ta xuất hiện một cách đột ngột, nhưng điều kỳ lạ hơn là ông ta đột nhiên bất tỉnh sau khi nhận một liều thuốc mê đúng tiêu chuẩn trong khi phẫu thuật. Ông ta phải chịu thống khổ suốt bảy năm trước khi chết vào ngày 12 tháng 2 năm 2009 ở tuổi 53.
Chúng tôi hy vọng rằng những trường hợp quả báo này sẽ như là lời nhắc nhở cho những ai đã theo ĐCSTQ tuyên truyền những lời dối trá và hành động sai trái. Mọi người thường cảnh giác với những nghiệp báo tức thì, nhưng với những trường hợp quả báo xảy ra trong một thời gian dài, mọi người thường quên về những nguyên nhân, và coi chúng là sự bất hạnh ngẫu nhiên. La Kinh, chủ nhân chương trình tin tức truyền hình nổi tiếng trên Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), tiếng nói hiệu quả nhất của ĐCSTQ trong việc vu cáo Đại Pháp và kích động thù hận đối với phong trào tinh thần ôn hòa,https://youtu.be/1nyJktZKVfQ cũng đã chết vì ung thư cổ họng. Bệnh tật của ông ta không thể nào là ngẫu nhiên.
Điều rất quan trọng là phải lương thiện, trung thực, và không đi theo ĐCSTQ trong việc truyền bá sự hận thù với Pháp Luân Đại Pháp và các học viên.
Vào những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ trước, ông Lý Hồng Chí (người được các học viên của mình gọi một cách kính trọng là Sư Phụ) bắt đầu đi truyền dạy Pháp Luân Đại Pháp ngoài xã hội. Pháp Luân Đại Pháp hay còn gọi là Pháp Luân Công là một môn tập luyện mà người Trung Quốc gọi là “tu luyện”. Các học viên Pháp Luân Đại Pháp tập các động tác chậm dãi và uyển chuyển và quan trọng hơn là thực hành theo các nguyên tắc Chân Thiện Nhẫn trong cuộc sống hàng ngày của mình.
Bắt đầu từ năm 1992, Sư Phụ Lý Hồng Chí đi khắp Trung Quốc trong hơn 2 năm liền, truyền dạy hơn 50 khóa học về pháp môn ở các thành phố trên toàn quốc. Học phí của các khóa học thuộc vào loại ít tiền nhất trong cả nước nhưng những điều mà các học viên nhận được là vô giá – họ học được một môn tu luyện chân chính vượt xa các mục đích thông thường là chữa bệnh và đề cao sức khỏe.
Lý Sư Phụ tham gia Hội sức khỏe Đông phương tổ chức vào các năm 1992 và 1993 ở Bắc Kinh và nhận đuợc rất nhiều giải thưởng. Các học viên nhanh chóng nhận ra rằng trong quá trình tham dự các khóa học thân thể họ được tịnh hóa và đạt đến trạng thái sức khỏe rất tốt. Lợi ích ban đầu này đã làm cho nhiều người phải nghiêm túc tìm hiểu về pháp môn và dẫn đến sự phát triển cực kỳ nhanh chóng của môn tập.
Vào khoảng năm 1998, chỉ riêng ở Trung Quốc đã có hơn 100 triệu người theo học. Hiện nay Pháp Luân Đại Pháp đã có mặt ở trên 114 nước trên thế giới. Chỉ còn các nước theo chủ nghĩa cộng sản ma quỷ là phản đối, nhưng cũng không thể chống lại điều tốt đẹp mà Pháp Luân Công đem lại cho nhân loại, dù họ có dùng lý lẽ gì để phản đối Pháp Luân Công cũng là ngụy biện, chống lại cái Thiện thì chắc chắn là cái Ác rồi. Việt Nam chỉ âm thầm quấy rối theo cách hèn hạ đê tiện của đảng Cộng sản cấm ngầm chứ không có văn bản chính thức.
Các bạn có thể đọc thêm về thế giới ủng hộ plc tại đây: https://by.com.vn/jMaykF
Trong quá trình Lý Sư Phụ đi truyền dạy pháp môn này, nhiều người đã nhận ra rằng ông không phải là một khí công sư bình thường – ông đã thực sự thể hiện được sự xuất sắc của pháp môn. Lý Sư Phụ đã thực sự dẫn dắt mọi người lên cảnh giới nhận thức cao hơn. Vì vậy mà hàng triệu người đã có lại được sức khỏe và có được hiểu biết sâu sắc hơn về mục đích nhân sinh và cách đề cao bản thân để sống một cuộc sống coi trọng đạo đức, đối xử tốt với tất cả mọi người.
Các học viên đã dũng cảm và cao thượng đối mặt với sự tàn bạo chưa từng có của cuộc đàn áp ở Trung Quốc hơn 23 năm qua và thể hiện được chuẩn mực đạo đức tâm tính cao thượng của mình. Sự xuất sắc của Pháp Luân Đại Pháp và các học viên đã được ghi nhận trên khắp thế giới: Sư Phụ Lý Hồng Chí và Pháp Luân Đại Pháp đã nhận được hơn 1400 giải thưởng và công nhận và Lý Sư Phụ đã được đề cử 3 lần cho Giải Nobel về Hòa bình.
Vậy tại sao học viên pháp Luân Công không quan tâm gì đến chính trị | cuộc chiến THIỆN ÁC TRUMP BIDEN?
TRẢ LỜI: 4. Tổng trạm các nơi đều tuân thủ pháp luật quốc gia, không can thiệp đến chính trị; đề cao tâm tính người tu luyện là thực chất của tu luyện. Phần Phụ lục đại viên mãn pháp . Link sách: https://by.com.vn/0yPkOZ
Quyển sách này là một tuyển tập các câu chuyện về những năm đầu Pháp Luân Đại Pháp được truyền dạy ở Trung Quốc. Trong những bài viết này, các học viên của pháp môn nhớ và ghi lại về các khóa học cũng như kỷ niệm của họ về những lần được tiếp xúc với Lý Sư Phụ trong các hoàn cảnh khác nhau và một số trải nghiệm cá nhân của mình về Pháp Luân Đại Pháp. Tất cả các tình tiết trong cuốn sách này là các câu chuyện có thực của các tác giả và đóng vai trò là những tư liệu về thời kỳ lịch sử đáng trân quý đó – một lịch sử đang ngày càng được nhìn nhận là có ảnh hưởng lớn trên thế giới.
Đọc sách pdf 📕 ở đây, tìm hiểu thêm :> https://by.com.vn/tPzdHm
Quá nhiều trường hợp bị quả báo trong 23 năm không thể đưa vào 1 bài các bạn tìm hiểu thêm tại đây: https://by.com.vn/5wnoyl
Nhiều trường hợp minh bạch chân tướng phân rõ Thiện Ác đắc Phúc báo tại đây :
Luôn có những người bạn hỏi tôi [Thực sự có Thần tồn tại không? Nếu có, tại sao chúng ta không nhìn thấy?] Tôi trả lời: Nhất định là có. Vậy tại sao con người lại không nhìn thấy sự tồn tại của Thần? Nguyên nhân rất đơn giản, bởi vì con người đang ở trong mê.
Một đời người, cho dù là làm quan to đến đâu, cho dù có bao nhiêu tiền đi chăng nữa, cũng không thể nào thoát ra khỏi 4 chữ: sinh, lão, bệnh, tử. Nhưng khi con người chết đi, không phải đơn giản chết là xong hết, mà họ lại phải luân hồi trở lại ( youtube search từ khóa : vì sao con người phải luân hồi chuyển sinh | ngẫm radio ). Cho dù bạn làm quan to đến đâu, có nhiều tiền như thế nào đi nữa cũng không thể mang theo được, có một câu nói rằng “Nhân sinh như mộng”, chính là để nói về cái ý này.
Con người luôn có thói quen dùng tư tưởng của người thường để lý giải Thần, con người cho rằng dập đầu đốt hương cho Thần thì có thể phát tài, sinh con trai, thậm chí là không còn bị bệnh tật; Nhưng con người lại không biết rằng cuộc đời của con người khi sinh ra đều đã được an bài dựa vào phúc báo tích lũy từ tiền kiếp, không thể vì con người dập đầu bái lạy Thần mà có thể thay đổi được. Tìm hiểu sâu về Phật Pháp | không phải Phật giáo thời kỳ mạt pháp ở các chùa hiện nay. Thì 1 cọng tóc của bạn rụng xuống cũng không lệch 1 milimet nào. Điều này là khẳng định.
Kết quả con người sau khi dập đầu bái lạy, bệnh vẫn không khỏi, họ liền không tin tưởng vào Thần nữa, cho rằng không linh nghiệm, và không linh nghiệm tức là không tồn tại. Thế nhưng con người luôn sợ chết, vậy nên luôn có người kêu than rằng: “Giá như có thể tìm thấy linh đan diệu dược có thể trường sinh bất tử thì tốt biết bao!”. Tuy vậy, khi bạn nói với họ rằng thông qua tu luyện có thể đạt được mục đích đó, họ lại cười phá lên, cho rằng đó là việc không thể tin, cho rằng đó là “mê tín”.
Trong lịch sử của chúng ta có một người tu hành rất nổi tiếng, đó là lục tổ thiền tông Huệ Năng, nhục thân của ông không bị hoại, hiện đang được cúng bái tại Chùa Nam Hoa ở Quảng Đông cho tới nay đã hơn 1000 năm, đây là một sự thực minh chứng rõ ràng. Mọi người thử nghĩ xem, một người bình thường liệu có thể đạt được trạng thái như vậy không? Một thân thể bất hoại, vật chất ở bên trong thân thể lẽ nào không phải là do tu hành mà cải biến sao? Người như vậy chẳng phải là Thần sao? Thần sở dĩ lưu lại một cơ thể bất hoại, chính là để nói cho chúng ta biết: Thần thực sự là có tồn tại, và tín ngưỡng trong tôn giáo không phải là duy tâm.
Con người luôn tưởng tượng rằng Thần là phải cưỡi mây đạp gió, phất tay một cái là những kẻ xấu đều phải chết hết. Thế nhưng khi Thần hạ thế xuống nhân gian, là không thể thi triển thần thông như con người vẫn hay tưởng tượng, bởi vì con người đang ở trong mê, rất nhiều người đang phải ở trong mê để ngộ đạo, cho nên việc đại hiển thần thông là điều không được phép, giả sử con người đều nhìn thấy Thần, thế thì sẽ không còn tồn tại cái “ngộ” nữa.
Chẳng phải có một câu nói là “Chấp mê bất ngộ” hay sao?
Người bị nói đến ở đây chính là người đã bị những hiện tượng trong thế gian này mê hoặc, không còn tin tưởng vào Thần, những người này bị coi là ngộ tính không tốt. Thần mặc dù không thể dễ dàng hiển thị cho con người thấy, nhưng Thần lại có thể lưu lại văn hóa cho con người, văn minh lịch sử Trung Hoa 5000 năm kỳ thực chính là một bộ văn hóa Thần truyền, vậy mà lại bị con người chỉ trích là “mê tín phong kiến”, từ đó cắt đứt đi mối liên hệ huyết mạch giữa người và Thần.
Khi con người không còn chính tín, không còn tin tưởng báo ứng, thì việc xấu nào cũng dám làm, mọi người nghi hoặc lẫn nhau, nguy cơ tứ bề, con người ngày càng xa rời khỏi Thần. Tuy nhiên, từ bi của Thần là vượt xa so với những gì con người tưởng tượng, ngay cả đến mức độ con người dám phỉ báng cả Thần, Thần vẫn cho con người thêm một cơ hội nữa. (youtube tìm song tiền đường kiếp nạn được an bài 900 năm trước).
Tai nạn cục bộ chính là cảnh báo đối với con người, thế mà lại bị những kẻ cố chấp xem là “Tai họa tự nhiên”. Tín đồ của Thần ở tại khắp nơi, chịu vô vàn đau khổ, truyền đi chân tướng và phúc âm của Thần, chỉ vì sự bình an của bạn và tôi, lại bị hứng chịu sự cười nhạo và chỉ trích. Có nhiều người nhìn thấy tượng Thánh Mary, tượng Phật, tượng Bồ Tát ở khắp nơi rơi lệ, đó là vì Thần đã nhìn thấy trước đại thảm họa mà con người sẽ phải gánh chịu trong tương lai, vậy mà con người vẫn chấp mê bất ngộ.
Thời gian kỳ thực đã vô cùng cấp bách, đợi tới ngày mà Thần Phật đại hiển, cũng như việc công bố đáp án kiểm tra, một khi đã hiển lộ thì cơ hội cuối cùng để được đắc cứu cũng không còn, đến lúc ấy có hối hận cũng đã muộn rồi.
Xã hội luôn lo sợ và phẫn nộ trước những thông tin về tà giáo làm hại con người ta như thế nào. Nhưng khi không phân biệt được chính tà, việc đánh đồng và ác cảm với mọi tín ngưỡng tâm linh đôi khi lại dẫn chúng ta tới sự vô minh cũng nguy hiểm không kém.
Xã hội càng phát triển thì càng phức tạp. Phức tạp bởi chính khi tưởng rằng phát triển lên, con người lại càng xa rời tín ngưỡng chân chính. Và khi đã xa rời, họ không còn phân biệt được chính tà. Vô minh khiến người ta hình thành tư thế bảo thân, tránh xa, thậm chí ruồng rẫy cả những giá trị tốt đẹp.
Lý của Đất Trời là có tốt thì có xấu, có chính thì có phản, thời nào cũng có những thứ tà giáo lôi kéo con người ta. Cũng bởi chính lý càng tốt đẹp, càng mạnh mẽ thì những thứ ăn theo, phá hoại, làm nhiễu loạn việc lựa chọn của con người càng nhiều và càng tinh vi.
Nhiều gia đình đã tan nát vì có người thân đi theo tà giáo. Những thanh niên tương lai đầy rộng mở đã vội khép lại. Những người mẹ trẻ bỏ chồng, tha con đi truyền đạo kiếm tiền. Trước họa loạn ngụy tôn giáo lừa đảo, người dân đề cao cảnh giác, khước từ mọi lời mà họ cho là lôi kéo, truyền giáo. Người ta hình thành tư duy bài xích đối với tôn giáo và những môn thực hành tâm linh, tín ngưỡng nói chung, vô hình chung trở thành người vô Thần, vô Đạo.
Nhưng đó lại là cách làm quá triệt để và thiếu suy xét. Bởi khi xa rời, phản đối cả những chính lý Thiện lương, tốt đẹp, trở thành kẻ vô Đạo, cũng có nghĩa là có nguy cơ trở thành người không có Đạo Đức. Hay ít nhất cũng đã bỏ qua tấm lòng chân thành đầy từ bi mà ta hữu duyên gặp trên đường đời. Hoặc kinh khủng hơn, là bạn đã vô tình đứng về phía cái ác bằng sự lặng im và hoài nghi của mình.
Có câu chuyện được lưu truyền trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại rằng, khi người Việt sang Iraq lao động, người Iraq hỏi bạn theo đạo nào, nghe câu trả lời là “Không”, thế là họ tản ra không muốn quan hệ, vì họ e ngại vô Đạo thì cũng chính là: "Vô Đạo Đức." đảng cộng sản + Satan giáo là chủ nghĩa vô thần.
Ông Will Gervais, từ Đại học Kentucky, đã chia sẻ kết quả một nghiên cứu của mình với báo The Times. Nó cho thấy, người vô Thần là những người mà dân Mỹ không muốn bỏ phiếu bầu làm tổng thống nhất.
Nghiên cứu này không chỉ thực hiện ở Mỹ mà đã khảo sát hơn 3.000 người từ 13 quốc gia. Ông Will Gervais nói: “Mọi người dường như cho rằng tôn giáo là yếu tố tất yếu của đạo đức. Và không có tôn giáo, mọi người sẽ hành xử hoang dã vì không có ai yêu cầu họ phải trung thực. Tại sao họ không nên nói dối, ăn cắp và hãm hiếp?”.
Trong tiểu thuyết “Anh em nhà Karamazov”, nhà văn Dostoevsky có viết, vì không có đức tin nên những người vô Thần coi “mọi điều đều hợp pháp”. Vì vậy những người vô Thần có thể làm bất cứ điều gì mà không sợ hãi, kể cả tội ác.
Thế nhưng để bảo vệ nhân dân trước tà giáo hoặc nhằm mục đích chính trị, bảo vệ quyền lực của giới thống trị, nhiều nhà nước từ cổ đại tới hiện đại đã thực hành việc đàn áp tôn giáo hoặc vu oan, tuyên truyền một chiều sai lệch các chính giáo và tín ngưỡng Thiện lương. Thậm chí đánh đồng chính giáo và tà giáo để người dân có góc nhìn không thiện cảm.
Người dân hình thành tâm lý đề phòng mà quy chụp mọi loại tôn giáo, tín ngưỡng thành thứ đồ mê tín, u muội. Nhưng như thế, vô tình, họ đang biến mình thành người vô Đạo, vô Thần. Vô Đạo đã là thiếu đi sợi dây ước thúc đạo đức, mà còn phỉ báng hiểu sai chính Pháp, chính Đạo thì nguy hiểm hơn nữa. Họ đã phạm tội mất rồi. Họ đang khởi tác dụng ngăn cản những giáo lý tốt đẹp được truyền tải tới nhiều người hơn nữa. Chống lại cái thiện thì chính là cái ác. Chắc chẳng ai muốn trở thành người ác. Vậy làm thế nào phân biệt chính tà?
Ngày nay đi trên đường, bạn có thể gặp rất nhiều những người đưa tờ rơi hoặc giới thiệu về các môn tập, thực hành tâm linh. Trong đó có những giá trị tốt đẹp mà cũng lẫn lộn cả những thứ đồ bã trấu bã cám chỉ nhăm nhe lôi kéo, trục lợi càng nhiều càng tốt.
Bạn có thể thấy khá phiền nhiễu và cảm thấy khó hiểu. Biết là cái này tốt, cái kia tốt, nhưng các vị cứ tập, cứ thực hành, tại sao phải bỏ công sức, thời gian để đi làm cái việc này?
Nhưng đó đều xuất phát từ tấm lòng Thiện lương của họ. Tất cả các chính Pháp, chính giáo đều đưa cho con người một con đường tự giúp bản thân. Nhưng là người thực hành tín ngưỡng đã thu được quá nhiều lợi ích từ đó, họ hiểu rằng điều tuyệt vời mình có được cần được lan truyền cho người khác. Hưởng lợi ích một mình là ích kỷ và không đúng với những giáo lý Thiện lương luôn hướng tới sự vị tha, vô ngã.
Những người hữu Thần luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác và khi được hỏi về sự đền đáp, họ chẳng yêu cầu gì ngoài việc hãy lan truyền lòng tốt.
Có câu chuyện rằng hai vợ chồng già Việt kiều được một người Mỹ giúp thay chiếc lốp xe giữa trời nắng nóng, trên cung đường vắng vẻ, mồ hôi nhễ nhại mà không hề nề hà. Lúc sửa lốp xong bà nói: “Lời cảm ơn của tôi có lẽ không đủ để đáp lại lòng tốt của ông. Tôi biết làm gì cho xứng đây?”. Người đàn ông Mỹ cười và nói: “Chị hãy giúp đỡ những người khác như tôi đã giúp chị hôm nay. Đó là cách cảm ơn tôi tốt nhất”. Những lời nói của người đàn ông này in đậm trong tâm trí của bà và đã thôi thúc bà không ngừng làm việc thiện.
Đó chính là tư duy của những người đã được hưởng lợi từ những giáo lý tốt đẹp của các chính giáo. Họ thật tâm muốn bạn biết thêm về những lợi ích mà họ đã thọ ích, muốn lan truyền cái tốt, bởi đó là cách hữu ích nhất để giúp đỡ cộng đồng. Thế nên những chính Đạo giúp con người càng có nhiều lợi ích, thì những người tin tưởng sẽ càng muốn chia sẻ để nhiều người biết hơn.
Và tất nhiên họ làm không vì tư lợi hay nâng cao sức mạnh tập thể của mình. Nên điều phân biệt rõ ràng nhất là họ không có đòi hỏi, yêu cầu ràng buộc nào từ bạn. Không thu hội phí, không có lớp học, không có nghi lễ phức tạp, không bắt bạn phải chống lại đời sống thế tục. Bởi quay trở lại thế tục, giúp đỡ người khác và cộng đồng là điều họ hướng tới.
Thế nhưng, tà giáo ăn theo hoặc tôn giáo giả hiệu thì hoàn toàn ngược lại. Họ là vì nhằm trục lợi, không phải cái lợi vật chất thì là cái lợi về quyền lực hoặc mưu đồ bất chính nào đó. Nên họ sẽ có những yêu cầu ràng buộc nhất định với các “tín đồ”.
Mọi chính đạo đều hình thành trên cơ sở và hướng tới sự Thiện lương. Nếu họ yêu cầu bạn phải vi phạm cái Thiện trong quan hệ đối xử với bất kỳ một ai, thì chắc chắn đó là tà giáo.
Mọi chính giáo, chính đạo đều chỉ cần bạn thực hành dựa trên sự giác ngộ. Nếu họ yêu cầu bạn phải tuyệt đối trung thành và nghe lời một đấng nào đó, và trừng phạt nếu bạn rời đi, thì chắc chắn đó không phải là chính giáo.
Mọi chính giáo, chính đạo đều là để hướng con người tới cái Thiện, chỉ ra cho con người cách thức giải thoát thực sự và bến bờ hạnh phúc. Muốn vậy đều phải tu bỏ nhân tâm và dục vọng. Nào còn màng vật chất, quyền lực? Vậy nên nếu họ yêu cầu bạn nộp lệ phí, mua bán cái gì đó, thề nguyện trung thành gì đó thì đều là lý do bạn nên cân nhắc kỹ.
Vậy nên khi hữu duyên gặp được lời giới thiệu nào đó về các môn tập thực hành tâm linh, bạn đừng vội bài xích hay từ chối. Phân biệt rõ chính tà không hề khó, và dành một chút thời gian để trân trọng, cảm ơn ý muốn thiện lương của một ai đó đang có ý định giúp bạn là điều nên làm. Đó là ứng xử văn minh tối thiểu của con người có hàm dưỡng.
Hơn thế nữa, đôi khi những gì họ mang tới cho bạn không chỉ là một lời giới thiệu về những giá trị và lợi ích tốt đẹp, mà nó còn mang trong đó lời kêu cứu trước những tội ác dã man.
Thời xưa khi chính giáo bị đàn áp và vu oan, họ chỉ có thể kêu cứu trong yếu ớt bởi sức mạnh độc quyền của tầng lớp cai trị. Nhưng ngày nay, họ hiểu rằng truyền thông và người dân chính là lực lượng hùng mạnh có thể đứng về phía chính lý một khi đã minh bạch. Giúp người khác nhận thức về tội ác cũng chính là giúp họ tạo dựng công đức của mình khi bảo vệ và lan truyền cái tốt.
Nên việc nói cho bạn rõ về một tội ác đàn áp tín ngưỡng nào đó lại chính là mong mỏi giúp bạn làm điều tốt của những người thực hành sự vô tư, vô ngã (không vì bản thân mình).
Tất cả những điều mà người tu tập theo chính Pháp làm cuối cùng đều là vì lợi ích của người khác, của bạn, của những người đang đau khổ vì bị vu oan và bức hại đâu đó trên thế giới, vì tương lai nhân loại hướng thiện và đại đồng.
Như Hoàng đế Napoleon Bonaparte từng nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà vì sự im lặng của những người tốt”.
Hay như câu nói nổi tiếng của mục sư, nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi Martin Luther King: “Cuộc đời của chúng ta bắt đầu kết thúc khi chúng ta im lặng về những điều lẽ ra phải lên tiếng”.
Thế nên khi gặp được một lời thỉnh nguyện từ những người đang thực hành tín ngưỡng bị đàn áp và vu oan, bạn hãy thanh tỉnh suy nghĩ, phân biệt rõ chính tà, góp một chút sức nhỏ bằng sự đồng ý hay ủng hộ họ.
Việc đánh đồng tất cả các loại đạo, giáo, tín ngưỡng là mê muội, không phân nổi đúng sai, có thể khiến bạn vô tình đứng về phía tà ác. Ngặn chặn cái tốt lan rộng, cổ vũ việc bài xích những giá trị thiện lành – Đó là sự vô minh đáng thương nhưng cũng đáng trách. Là sự vô tình đến nhẫn tâm. Là sự u muội thực sự khi nghe theo những bịa đặt vu khống mà quy kết người khác là u muội.
Và bạn biết không? Con người mọi thời đại đều phải có triết lý tâm linh làm “sợi chỉ buộc chân voi” và làm ngọn đèn soi rọi hành trang cuộc đời. Nếu không, chẳng có gì ước thúc dục vọng, chẳng có niềm tin sống hướng thiện, đó là sự kết thúc của nhân loại dù có phát triển đến đâu.
“Sự việc của Thần thì con người có thể biết được, nó vốn hiển hiện rõ trong tâm mỗi người, bởi vì Thần đã mặc khải cho họ. Từ khi tạo ra trời đất đến nay, năng lực vĩnh cửu và Thần tính của Thần vẫn hiển hiện rõ ràng, tuy rằng mắt thường không nhìn thấy được nhưng dựa vào những vật thể đã được tạo ra thì có thể biết được, khiến con người không thể chối bỏ”. (Kinh Thánh – Rô-ma 1: 19-20)
Theo tài liệu văn hiến lịch sử sớm nhất của Trung Quốc là sách Thượng Thư có ghi chép, mỗi khi bậc vua quan các triều đại Hạ, Thương, Chu, mỗi khi mở miệng họ đều nói đến Trời, mệnh Trời. Hơn nữa, chữ Đế còn được tìm thấy rất nhiều trong chữ Giáp cốt. “Trời” là gì? “Đế” là gì? Vào thời thượng cổ thì hai chữ này có cùng ý nghĩa, đều chỉ vị Thần cao nhất, cũng là vị Thần tối cao làm chủ tất cả. Ngoài thờ Trời và Đế, người thượng cổ còn tín ngưỡng nhiều vị Thần khác như Thiên Thần, Thần Núi, Thần Sông cùng quỷ…
Bắt đầu từ trước sau thời Tiên Tần, Trung Quốc xuất hiện Đạo gia, Đạo giáo, Hồi giáo, Đạo Cơ Đốc, Đạo Thiên Chúa… Mãi đến thập niên 90, khi phong trào khí công đang rất hưng thịnh, tín ngưỡng Pháp Luân Công mới lại xuất hiện. Những pháp môn này đều là tín ngưỡng Thần, mỗi môn lại tín ngưỡng một vị thần riêng. Kỳ thực, Thần không phải là điều gì quá huyền bí hoặc là thứ khó hiểu, họ chẳng qua là những sinh mệnh có trí huệ to lớn, là sinh mệnh cao cấp mà thôi.
Nhưng ở Trung Quốc ngày nay, không cần biết bạn tin vào điều gì, chỉ cần là tín ngưỡng vào Thần thì đều trở thành kẻ đối đầu với Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Trong quá trình cầm quyền, nó không chỉ hủy hoại niềm tin của người dân thông qua việc truyền bá học thuyết vô Thần mà còn dùng nhiều biện pháp chèn ép và hãm hại người tín ngưỡng Thần.
Vì để hợp thức hóa cho việc phá hủy và đàn áp tín ngưỡng, nó còn khéo léo chụp lên đầu tín ngưỡng cái gọi là “phong kiến mê tín”. Cho đến ngày nay, nó đã dùng cụm từ này để tuyên truyền bôi nhọ tín ngưỡng Thần trên phạm vi rất rộng. Vậy nên, mỗi khi có người nói rằng bản thân tín ngưỡng Thần thì liền có người cười mỉa mai: “Anh không phải đang làm mê tín phong kiến sao?”. “Thứ mê tín phong kiến này anh cũng tin à?”.
Điều này đưa ra cho chúng ta một vấn đề trọng yếu: “Liệu tín ngưỡng vào thần có phải là mê tín phong kiến?”. Để trả lời rõ câu này thì cần phải hiểu rõ thế nào là phong kiến mê tín.
Trải nghiệm cận tử của người vô thần: https://youtu.be/z1oc8mvxz2A
- Nghe radio về cổng địa ngục ở Nga tại đây : https://by.com.vn/UIfAWf
- Tìm hiểu thêm luân hồi tại đây: https://youtu.be/NubEdQTwwUE
- Đọc sách pdf 📕 ở đây, tìm hiểu thêm :https://by.com.vn/tPzdHm
- Quá nhiều trường hợp bị quả báo trong 23 năm không thể đưa vào 1 bài các bạn tìm hiểu thêm tại đây: https://by.com.vn/5wnoyl
- Nhiều trường hợp minh bạch chân tướng phân rõ Thiện Ác đắc Phúc báo tại đây :
- Các bạn có thể đọc thêm về thế giới ủng hộ plc tại đây: https://by.com.vn/jMaykF
😃 Phần hai còn hay hơn nữa hãy đón đọc nhé.
...To be continue...