Người ta nói rằng từ rất xa xưa, trong một đại phạm vi tầng thứ trên thiên thượng, có một vị Long Vương. Vị Long Vương này đích thị là “Long Vương”, khi ông là vua rồng và là vương ở tầng thứ của ông. Rất nhiều, rất nhiều năm đã trôi qua, và không có thứ “tình” thuộc tầng thứ thấp trong thế giới của ông. Ở đó không có cảm giác thống khổ hay buồn bã, mà chỉ có sự vui vẻ và hạnh phúc. Ông có rất nhiều đứa “con” và chúng sinh trong thế giới của ông. Thỉnh thoảng, ông lại mở một đại Pháp hội với vương và chủ của các thế giới khác để bàn cách quản lý những vấn đề trong phạm vi tầng thứ của họ.
Dần dần, ông phát hiện rằng thế giới của ông không còn thuần tịnh và mỹ lệ như trước nữa. Mọi thứ được làm bằng vàng trên thiên thượng, nhưng ông thấy rằng mọi thứ trong thế giới của ông đã trở nên ảm đạm hơn, dù chúng vẫn làm bằng vàng ròng. Ông cũng nhận thấy rằng chúng sinh của ông đã mất đi sự vô tư vô ngã (Thời gian dường như là ngắn với chúng ta, nhưng vô số kiếp đã trôi qua trước khi sự kiện này phát sinh). Họ thường ăn cắp vật phẩm và dấu diếm mọi thứ. Thân thể họ không còn thuần khiết và trong suốt như thuở ban đầu nữa.
Lúc ấy, lão Long Vương vô cùng buồn bã. Nỗi buồn này không phải là nỗi buồn nơi nhân gian vốn bị ảnh hướng bởi “tình”. Đây là sự lo toan cho bản thân và chúng sinh, có chút gì đó bất lực, bởi vì ông biết rằng sự tình này liên quan đến nhiều điều nằm ngoài khả năng của ông. Ông mở một hội nghị gồm vương và chủ của nhiều thế giới thuộc các tầng thứ khác nhau, và tất cả họ đều có cảm giác tương tự. Nhiều vị vương chủ nói: “Vấn đề này chỉ có thể được giải quyết bằng cách Chính Pháp từ tầng thứ thấp nhất. Nhưng tầng thứ thấp nhất là nơi bất hảo nhất, mê nhất và nhiều thống khổ nhất. Hơn nữa, rất khó để chúng ta có thể quay trở về.” Khi họ đang bàn bạc vấn đề, một cự Phật cùng tiếng âm nhạc mỹ diệu, Pháp Luân và hoa sen dần dần hạ xuống từ tầng thứ cao nhất, nằm ngoài phạm vi mà họ có thể nhìn thấy. Nhiều thiên nữ bắt đầu rải hoa. Cảnh tượng thật tráng lệ ngoài sức mô tả.
“Chuyển luân thủ trung nã
Liên hoa cước hạ thải
Uy nghiêm chấn thiên địa
Từ bi diệu chúng sinh”Diễn nghĩa:
“Pháp Luân xoay chuyển trong bàn tay
Hoa sen dưới bàn chân Ngài
Uy nghiêm chấn động cả trời đất
Ngài từ bi soi sáng chúng sinh”
Tất cả các đấng vương chủ đều mau chóng quỳ xuống dưới chân Ngài. (Đây là lần đầu tiên trong lịch sử điều như vậy xảy ra. Trước đây, các vương chủ này đều kính trọng lẫn nhau và tôn trọng chúng sinh của họ, nhưng họ chưa từng quỳ xuống trước một vị Phật nào. Tuy nhiên, khi nhìn thấy đức Pháp Luân Thánh Vương, họ đã quỳ xuống theo bản năng). Họ nghe được thanh âm trong trẻo và vang dội của vị cự Phật:
“Vũ trụ mang mang lịch vạn kiếp
Chúng sinh biến dị thiên địa biệt
Vi cứu thương vũ tiến tam giới
Tiễu tức hồng nguyện vĩnh bất diệt!”Diễn nghĩa:
“Vũ trụ mênh mang đã trải qua hàng vạn kiếp
Chúng sinh biến dị, trời đất sai biệt
Để cứu chúng sinh, hãy tiến vào tam giới
Hoàn thành hồng nguyện vĩnh viễn bất diệt!”
Đức Pháp Luân Thánh Vương nói lại một lần nữa: “Ta sẽ xuống thế gian con người để cứu độ tất cả chúng sinh. Ai phát nguyện đi cùng ta có thể ký một thệ ước. Sau khi Chính Pháp xong, mọi thứ sẽ trở nên trường tồn bất diệt.” Lão Long Vương mau chóng nói: “Con nguyện ước đi cùng Ngài.” Một số vương và chủ khác cũng bày tỏ mong muốn đi xuống thế gian. Khi những lời này được nói ra, một cuộn giấy trông giống như Thánh chỉ của Hoàng Đế thời xưa xuất hiện và tự động ghi lại những gì họ nói. Một số vị Thần ngại ngần và sợ phải đi xuống thế giới con người. Sau đó, lão Long Vương cùng một số vị Thần bắt đầu đi xuống nhân gian. Lúc đầu, họ chỉ quan sát và lựa chọn nơi họ sẽ chuyển sinh. Trong khi quan sát, lão Long Vương gặp các vị Thần và mọi việc xảy ra như đã được kể trong bài viết trước (“Phủi sạch phong trần (phần 1): Đại vũ trụ thuở sơ khai“).
Tìm sư vạn dặm muôn vàn khổ, ngày kia đắc Pháp về cố hương
Thế gian không ít người nhận thấy rằng, cuộc sống này là vô vị và bế tắc. Họ dốc lòng tìm những phương pháp để có thể thoát ly. Dưới đây là câu chuyện có thật về một người có tâm cầu Đạo, trải qua bao trầm luân cay đắng, cuối cùng ông cũng được ‘khổ tận cam lai’.
Tại Trung Quốc Đại lục có một cụ già, lúc còn trẻ tham gia học khí công để tăng cường sức khỏe. Sau này ông phát hiện, khí công ngoài tác dụng chữa bệnh còn có nội hàm thâm sâu hơn, vậy nên ông đã xuất ra tâm cầu Đạo. Từ đó bất kể là nơi đâu, ngay cả nhân lúc đi công tác ông cũng không quên tầm sư học Đạo.
Nhưng trải qua trăm nghìn cay đắng cũng không thu được gì cả, điều đó làm ông rất thất vọng và hoang mang, trong tâm ông rất khẩn thiết có thể tìm được một minh sư để chỉ dẫn. Đúng là “Trời không phụ lòng người”, sau bao nhiêu gian nan vất vả cuối cùng ông cũng tìm được một bảo vật làm bản thân thỏa tâm nguyện kiếp này.
Dưới đây là câu chuyện gian khổ tìm Đạo do chính ông thuật lại:
Sinh ra ở Trung Quốc Đại lục, ông lão sống ở vùng Trung Nguyên, đã từng học Cao đẳng, từng công tác tại đơn vị hành chính địa phương, ông kể:
Tuy tôi đã tiếp nhận phải giáo dục vô Thần luận, nhưng gia đình của tôi trong mắt người ngoài có chút “thần bí”. Tổ tiên của tôi mấy đời đều tín Thần tín Phật, làm nghề Đông y gia truyền. Bà nội của tôi có công năng thấu thị, có thể nhìn thấy được nội tạng của người đi trên đường.
Cha của tôi đã học qua “Chu Dịch”, “Bát Quái”, cũng có công năng thấu thị, nghe nói còn có cả công năng dự trắc (dự đoán). Nhưng tôi không thể chứng thực được điều này, trong ấn tượng của tôi thì cha rất thích ngồi ngủ.
Trong nhà của tôi từng có một hội xem bói Lão Gia Tử gọi là “Từ bán tiên”. Tôi nhớ rất rõ, khi còn bé trong nhà thường có một ít người lạ vì ngưỡng mộ mà đến, họ đều nói cha tôi tính toán rất linh nghiệm.
Khi còn bé thân thể tôi vốn không được khỏe mạnh, 5 tuổi bị viêm phổi, lao phổi, lúc bệnh nặng tưởng chừng như là rơi xuống vực sâu không đáy. Nhưng cuối cùng lại có một năng lực vô hình nào đó nâng tôi lên từ nơi tăm tối. Lúc chín tuổi, mũi tôi cứ bị chảy máu không ngừng, suýt chút nữa thì đã mất đi tính mạng.
Sau đó tôi còn bị sốc do dị ứng thuốc, còn bị té xuống nước, ngã bị thương, té xỉu không biết gì, tóm lại là gặp nguy hiểm liên tiếp, nhưng cuối cùng đều có thể vượt qua được.
Lúc 24 tuổi thì khổ sở vì tình yêu, không thể tự thoát ra được, bệnh phổi tái phát, cũng gần như đi tới ranh giới của sống chết. Sau đó còn bị thêm bệnh ở xương cổ, bệnh phong thấp rồi vấn đề về tim các loại. Có một đoạn thời gian tôi liên tục bị sốt nhẹ, đã dùng cả Trung và Tây y, cuối cùng cũng gắng gượng mà sống được.
Để tăng cường sức khỏe, tôi đã từng luyện tập Thái Cực Quyền, nhưng hiệu quả không nhiều. Sau đó đổi qua học khí công, gặp được một khí công sư nổi tiếng, chuyên môn dạy người ta cách để chữa bệnh. Ông ấy ở một thành phố khác, cách chỗ tôi khá xa, nhưng do bị cuốn hút bởi danh tiếng, tôi vẫn thường xuyên đi rất xa để đến chỗ ông ấy học công.
Tôi nghĩ thầm mình thân mang đầy bệnh tật, sao lại còn có thể đi xem bệnh cho người khác được? Cuối cùng có một ngày tôi nói với ông những nghi vấn trong lòng của mình, không ngờ ông ấy lại nói với tôi: “Ta chỉ là khí công sư trải đường, cao nhân thực sự còn chưa có xuống núi”. Ông chỉ nói đến đây mà không giải thích thêm gì nữa.
Ở thành phố nọ có một ngôi chùa rất lớn, mỗi lần tới thành phố này tôi đều muốn ghé qua ngôi chùa đó một lát, có một lần gặp được một vị cao tăng đã 90 tuổi, cảm giác rất hợp nhau.
Sau một lúc trò chuyện, tôi nhờ ông xem tướng, ông nói với tôi: “Không bao lâu nữa, sẽ có một ‘Đại Công’ thu nạp cậu vào”. Nói xong còn dùng hai tay vẽ thành một vòng tròn lớn.
Tôi nghe không hiểu, còn đang muốn hỏi thêm nhiều điều thì bị đệ tử của ông trách mắng, thế là đành phải ngoan ngoãn rời đi. Từ đó về sau tôi không ngừng phỏng đoán ý tứ của những lời này, nhưng rốt cuộc vẫn cảm thấy mờ mịt khó hiểu.
Vì nhớ tới lời của vị khí công sư nổi tiếng đã dạy cho tôi cách trị bệnh ở trên, tôi quyết định coi đây là một gợi ý, tôi đi du lịch khắp nơi tìm những cao nhân bái sư để học Pháp. Tôi xin nghỉ phép ở đơn vị công tác, và bắt đầu lên đường vân du.
Tôi đã đến núi Võ Đang, thắp hương trước đạo tràng của chân nhân Trương Tam Phong, dạo chơi qua các thánh tích của các bậc tiên hiền ở trong núi, bái kiến những đạo sĩ cả trăm tuổi. Tôi còn ghé thăm quê của Lão Tử, đi thăm “Lão Quân Đài” – nơi ông dùng để giảng kinh.
Mấy năm trôi qua, chùa chiền, đạo miếu lớn nhỏ đã đi qua không ít, hành trình phải đến cả vạn dặm. Mỗi khi đến nơi nào, vì để có thể hiểu rõ hoàn cảnh ỏ đó, tôi đều tới chỗ của những hòa thượng và đạo sĩ cùng ăn cùng ở với họ. Vì để có được sự tin tưởng của bọn họ, mỗi lần tôi đều chi rất nhiều tiền để lo việc hương hỏa, nhưng cuối cùng đều làm tôi thất vọng.
Kỳ thực tiền của tôi kiếm được cũng không dễ dàng gì, chủ yếu là dựa vào trị bệnh cho người khác. Mỗi khi đến chỗ nào đó, tôi đều trước tiên là dùng hình thức sơn đông mãi võ, rồi sau có ai đến xem bệnh cũng không từ chối, mấy năm trôi qua trị cho cũng phải đến cả ngàn người bệnh.
Lúc không có người đến khám bệnh, tôi cũng dạy người khác luyện khí công, chỉ cần có thể kiếm tiền là được. Bây giờ nhìn lại mới thấy lúc đó thật là không biết trời cao đất dày là gì.
Thời gian đó, cũng có lúc được tặng hoa tươi cùng tiếng vỗ tay hoan hô, cũng có lúc thì vắng vẻ buồn thiu, nhất là sau này bị ung thư cùng thêm các chứng bệnh nặng khác, thống khổ trên người thật không thể chịu được, dù là ai cũng khó mà có thể tưởng tượng được.
Vì để kiến thức của mình thêm phong phú, tôi đã xem qua rất nhiều sách có liên quan đến khí công, như “Đan kinh”, “Đạo tạng”, “Hoàng đế nội kinh”, “Tính mệnh khuê chỉ”,… cũng có xem qua “Thánh Kinh” và “Phật Kinh”, cũng tu qua Tịnh Độ, xem qua một chút Thiền Tông, thậm chí thử qua cả toán mệnh, xem tướng, xem phong thủy, nhưng trong đó có quá nhiều điều khó hiểu, không có ai có thể giải đáp cho tôi được.
Sau này cũng có xem đến sách “Các thế kỷ” của nhà tiên tri Nostradamus, “Thánh kinh khải thị lục”, rồi đến “Thôi bối đồ”,… cũng loáng thoáng nhận ra được là thời kỳ mạt kiếp sẽ có Thần Phật hạ thế độ nhân, nhưng các vị ấy đang ở nơi đâu? Tôi phải làm sao mới có thể tìm được họ? Không có ai nói cho tôi biết cả. Tôi chán nản, thất vọng mà trở về, sau khi về đến nhà lại bị bệnh nặng một lần nữa.
Tháng 9/1996, không biết tiếp theo nên đi đâu, tôi đành phải quay lại đơn vị công tác để đi làm. Một ngày lúc nghỉ trưa, một người đồng sự cầm một cuốn sách và hỏi tôi: “Anh không phải muốn học khí công sao? Có một quyển sách này đây, anh muốn xem thử không?” Tôi xem qua tên sách thấy ghi là “Chuyển Pháp Luân”, liền cầm lấy để đọc.
Trong quá trình đọc, nội dung sâu sắc trong sách đã hấp dẫn tôi, lòng tôi không ngừng bị chấn động! Tôi dường như đã biết được rất nhiều thiên cơ, những khúc mắc trong tâm cứ từng bước được cởi bỏ, đây là những điều tôi đã từng ao ước được biết trước đây, nhưng nay tôi lại có được mà không phải tốn một đồng tiền nào.
Chưa kịp xem hết tôi đã nhận ra, “Đây chính là điều mình đã chờ đợi, đây chính là Phật Pháp mà mình đã tìm kiếm bấy lâu nay! Đây chẳng phải là điều mà vị cao tăng kia nói là ‘Đại Công’ đó hay sao?”.
Lúc này tôi như bừng tỉnh khỏi giấc mộng, chân tướng mà cổ nhân nói:
“Đạp phá thiết hài vô mịch xử, đắc lai toàn bất phí công phu”, tạm dịch: Tìm mòn gót giày mà chẳng được, bỗng đâu xuất hiện trước hiên nhà.
Thật không thể ngờ, Đại Pháp tốt như thế này lại có thể tự đưa đến cửa nhà cho tôi, tâm tình lúc đó thật sự là mừng như phát điên, khó có thể hình dung được.
Tôi còn nhớ rất rõ, khi đó là ngày 6/9, tôi không chút do dự mà bước vào tu luyện Đại Pháp.
Sư Phụ Lý đã dùng ngôn ngữ nông cạn nhất để trình bày Pháp lý tối cao của vũ trụ, đã giảng ra đặc tính căn bản của vũ trụ là “Chân, Thiện, Nhẫn”, lần đầu tiên nói ra được nguồn gốc của sinh mệnh và ý nghĩa của nhân sinh, nói cho chúng ta biết mục đích của đời người chính là phản bổn quy chân, cơ duyên này thực sự là thiên cổ khó gặp, vạn thế khó cầu.
Sau khi tu luyện không lâu, tôi rất nhanh đã cảm nhận được cảm giác của một thân thể nhẹ nhàng không có bệnh là như thế nào, cơ thể và đầu óc đều vô cùng thoải mái, trước đây đều chưa từng được thể nghiệm qua.
Tôi nghiêm khắc tuân theo tiêu chuẩn “Chân, Thiện, Nhẫn” để yêu cầu bản thân mình, rất cẩn thận trong công việc.
Từ đó ở đơn vị tiếng lành đồn xa, trong gia đình thì vợ hiền con ngoan, con dâu thì hiểu lý lẽ, cháu trai thông minh, quan hệ nơi quê nhà đều hài hòa. Đây đều là phúc phận có được khi tu Đại Pháp, có dùng hết ngôn ngữ thế gian cũng không thể nào nói hết được ơn cứu độ của Sư Phụ!
Tính đến hiện nay, tôi đã tu luyện được hơn 20 năm, cùng với hàng trăm triệu học viên Pháp Luân Công khác. Tôi trước sau kiên định trên con đường tu luyện Đại Pháp, dù cho bức hại có hiểm ác như thế nào đi nữa cũng không chùn bước, tôi chưa bao giờ phải do dự cả, vì sao? Bởi vì điều tôi tu luyện chính là Phật Pháp – là Đại Pháp của vũ trụ, đường đường chính chính mà bước về phía trước.
Khi thấy đệ tử Pháp Luân Công ở Trung Quốc Đại lục phải mạo hiểm tính mạng để giảng chân tướng cho thế nhân, vậy mà có rất nhiều người nhắm mắt làm ngơ, trong lòng tôi thực sự rất khổ sở. Khi thấy rất nhiều người chỉ vì lợi ích vật chất trước mắt mà tiếp tay bức hại Đại Pháp và các đệ tử Đại Pháp, tôi chỉ có thể nắm chặt tay mà thương tiếc: “Con người trong mê à, khi nào mới có thể thanh tỉnh đây!”
Bối cảnh và sự thật về Pháp Luân Công
Những năm 1980, 1990, phong trào tập khí công trở nên nở rộ tại Trung Quốc. Nhưng nổi bật nhất là môn tu luyện Pháp Luân Công. Người dân Trung Quốc sau bao năm bị chèn ép về tinh thần trong môi trường chính trị khắc nghiệt, họ thực sự muốn tìm kiếm một con đường tâm linh để giải thoát những bế tắc trong tinh thần. Vì thế khi vừa được truyền ra công chúng năm 1992, Pháp Luân Công đã được toàn dân Trung Quốc tiếp nhận nồng nhiệt.
Pháp Luân Công là một môn tu luyện thiền định dựa trên các giá trị phổ quát Chân-Thiện-Nhẫn, nâng cao thể chất lẫn tinh thần.
Điểm đặc biệt của Pháp Luân Công chính là dung hòa được những bất đồng trong các tầng lớp nhân dân. Người dân chỉ cần chú trọng đề cao tâm tính, không phải lo xuất hiện bất kỳ mâu thuẫn nào với phương thức sinh hoạt hiện tại, hay mâu thuẫn chính trị đối với nhà cầm quyền, dù họ ở bất kể giai tầng nào.
Người học có thể đứng ngay tại vị trí của bản thân trong xã hội mà tự thay đổi chính mình. Điều này đối với chính quyền Trung Quốc thực sự chỉ có lợi.
Người cầm quyền nhà nước Trung Quốc khi đó là Giang Trạch Dân cũng đã tận mắt chứng kiến lợi ích tốt đẹp này. Do lòng đố kỵ và tâm địa hẹp hòi, Giang Trạch Dân đã đi vào vòng vết xe đổ của ĐCSTQ: Vu khống và đàn áp chính người dân của mình.
Ngày 20/07/1999, ĐCSTQ bắt đầu bức hại Pháp Luân Công, khắp nơi ở nước này đều diễn ra cảnh bắt người trắng trợn. Thời điểm ấy, các đài truyền hình trên toàn quốc đều phát sóng tiết mục bôi nhọ Pháp Luân Công suốt 24/24h.
Các học viên đã bị buộc phải rời khỏi trường học, cao đẳng, nơi làm việc và nhà riêng. Gia đình tan nát, những đứa trẻ không có người chăm sóc, trở thành kẻ vô gia cư.
Hàng chục nghìn học viên đã bị bắt giữ, tra tấn thậm chí là bức hại đến chết. Nhiều học viên khác bị buộc phải rời khỏi trường học, cao đẳng, nơi làm việc và nhà riêng. gần 100 triệu gia đình rơi vào cảnh bi thương, tan vỡ. Những đứa trẻ không có người chăm sóc, trở thành kẻ vô gia cư,…. Tất cả chỉ vì họ muốn làm người tốt và mang đến cho xã hội những giá trị đạo đức cao thượng.
Minhhui.org đưa tin, đã có hơn 4.300 học viên Pháp Luân Công được xác nhận bị chính quyền Bắc Kinh giết hại, con số thực tế còn chưa thống kê được còn lớn hơn nhiều. Bên cạnh đó, hàng nghìn học viên khác đã bị bỏ tù, bức hại và tra tấn, nhiều học viên còn trở thành nạn nhân của hành vi cưỡng chế thu gom nội tạng trong hơn hai thập kỷ qua.
Đây là tội ác lớn nhất của ĐCSTQ, thế giới đang lên án và sẽ đưa ra ánh sáng công lý một ngày không xa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét